Bản án 206/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 206/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc Q - Sinh năm: 1998. (Có mặt) Giới tính: Nam.

Nơi ĐKTT: Số 144 đường Võ Trường Toản, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định.

Nghề nghiệp: Không - Trình độ học vấn: 3/12.

Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không - Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông (không rõ lai lịch) và bà Huỳnh Thị P (1965).

* Tiền án, Tiền sự: Chưa.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: Ngày 04/9/2019 cho đến nay.

* Người bị hại: Ông Trần Anh V , sinh năm: 1983 (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 388/39/17 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm: 1999 (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Đang chấp hành án tại Trại giam kênh 7 – Bộ Công an.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng 11 giờ ngày 13/6/2019, Nguyễn Quốc Q và Nguyễn Văn S (sinh năm 1999) rủ nhau tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Khi đến trước nhà số 388/39/17 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang của anh Trần Anh V, thấy nhà khóa cửa chính bên ngoài, biết nhà không có người nên S trèo hàng rào vào trong sân, còn Q đứng bên ngoài canh đường. S đi vòng ra cửa sau thấy chỉ móc ổ khóa hờ nên lấy sơi dây chì đưa qua khe cửa mở ổ khóa, mở khóa xong, S kêu Q vào cùng tìm tài sản lấy trộm. S và Q lục soát trong phòng của anh V và lấy trộm được:

+ Tiền Việt Nam 16.500.000 đồng.

+ 01 (một) chiếc lắc bằng vàng 24K, trọng lượng 02 chỉ.

+ 01 (một) đôi bông tai bằng vàng 24K, trọng lượng 01 chỉ.

+ 03 (ba) chiếc nhẫn kim loại làm bằng vàng giả.

+ Cùng một số giấy tờ như: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân, 03 (ba) thẻ ATM, 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, 01 (một) sổ hộ khẩu.

Trộm xong, S và Q đến tiệm game bắn cá ở đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang dùng tiền vừa lấy trộm được chuộc xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 68X1-449.44 của Q đã cầm tại đây trước đó hết 2.000.000 đồng, số tiền còn lại S chia cho Q 6.000.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, S và Q đem số vàng trộm được đến khu vực chợ Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang bán cho các tiệm vàng (không nhớ tên tiệm, địa chỉ) được tổng số tiền 8.300.000 đồng, chia đều nhau mỗi người được 4.150.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Riêng số giấy tờ của anh V và 03 chiếc nhẫn vàng giả không bán được nên S mang về và vứt bỏ ở đâu không nhớ rõ.

Sau khi phạm tội, Nguyễn Quốc Q bỏ trốn và bị truy nã. Đến ngày 04/9/2019, Nguyễn Quốc Q bị bắt truy nã và bị tạm giam để xử lý theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung vụ án đã nêu trên.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án: Do Nguyễn Quốc Q và Nguyễn Văn S đã bán hết nên không thu hồi được.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số: 216/KL-TCKH ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận về giá trị còn lại của các tài sản do bị cáo trộm cắp của ông Trần Anh V vào ngày 13/6/2018 như sau:

- 01 (một) chiếc lắc đeo tay bằng vàng 24K, trọng lượng 02 chỉ có giá trị là 7.144.000 đồng; 01 (một) đôi bông tai bằng vàng 18K, trọng lượng 01 chỉ có giá trị là 3.572.000 đồng. (Bút lục: 18).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản nêu trên.

Bản cáo trạng số 212/CT-VKS ngày 12/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Nguyễn Quốc Q về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc Q – mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Anh V không yêu cầu bị cáo bồi thường lại giá trị tài sản bị mất trộm và cũng không có yêu cầu gì khác.

- Đề nghị buộc bị cáo Nguyễn Quốc Q phải nộp lại số tiền do phạm tội mà có là 12.150.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa, người bị hại Trần Anh V vắng mặt, nhưng trong quá trình điều tra có ý kiến xác nhận không yêu cầu bị cáo bồi thường lại giá trị tài sản bị mất trộm và cũng không có yêu cầu gì khác về phần dân sự. Về phần hình phạt, thì yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội, bị cáo đồng ý với quan điểm truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bảng Cáo trạng, kết luận điều tra và lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền tiêu xài, vào khoảng 11 giờ ngày 13/6/2019, lợi dụng nhà anh Trần Anh V ở số 388/39/17 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang khóa cửa không có người, Nguyễn Quốc Q và Nguyễn Văn S đã lén lút đột nhập vào nhà anh Việt lấy trộm được các tài sản gồm: tiền Việt Nam 16.500.000 đồng, 01 chiếc lắc bằng vàng 24K trọng lượng 02 chỉ, 01 đôi bông tai bằng vàng 24K trọng lượng 01 chỉ, 03 chiếc nhẫn kim loại làm bằng vàng giả, cùng 01 (một) giấy chứng minh nhân dân, 03 (ba) thẻ ATM, 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, 01 (một) sổ hộ khẩu. Tổng giá trị các tài sản Q và S trộm cắp là 27.216.000 đồng (Hai mươi bảy triệu hai trăm mười sáu nghìn đồng), trong đó Q thu lợi được từ việc chuộc xe hết 2.000.000 đồng và được chia là 10.150.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Quốc Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích vụ lợi muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ ra công sức lao động chân chính, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện hành vi lén lút trộm cắp và chiếm đoạt tài sản của người bị hại Trần Anh V một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người bị hại nói riêng và làm mất an ninh trật tự ở địa phương nói chung. Đồng thời, sau khi bị khởi tố, bị cáo đã có hành vi lẫn tránh và bỏ trốn, gây trở ngại và kéo dài cho công tác điều tra cũng như là giải quyết vụ án của các cơ quan có thẩm quyền. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, và cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, góp phần lập lại trật tự kỷ cương phép nước.

[4] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào được quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp và không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Anh V không yêu cầu bị cáo bồi thường lại giá trị tài sản bị mất trộm và cũng không có yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Tuy nhiên, số tiền Nguyễn Quốc Q thu lợi được 12.150.000 đồng là do phạm tội mà có, cần buộc bị cáo giao nộp để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

[9] Về các vấn đề khác: Ngày 28/11/2018, Nguyễn Văn S đã bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá đưa ra xét xử và xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hiện đang chấp hành án ở Trại giam kênh 7 - Bộ Công an.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc Q – 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ: ngày 04/9/2019.

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Buộc bị cáo Nguyễn Quốc Q phải nộp lại số tiền do phạm tội mà có là 12.150.000 đồng (Mười hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:206/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về