TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 205/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường Ủy ban nhân dân phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 195/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1992; tại Lâm Đồng; nơi cư trú: 93/1 đường T, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1960 và bà Phí Thị Ngọc H, sinh năm: 1962; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm tam từ ngày 07/8/2020; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. (Có mặt)
Người làm chứng: Phí Thị Ngọc H; (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Ngọc D là đối tượng sử dụng ma túy đá từ năm 2015. Ngày 03/8/2020, khi D đang chơi game online qua điện thoại thì có một người lạ (không rõ nhân thân, lai lịch) chào bán ma túy nên D đồng ý mua. Đến 21 giờ, cùng ngày, D đi đến khu vực Đ, phường H, thành phố Đ gặp và mua của người này 01 gói ma túy đá với số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó, D mang gói ma túy này về nhà của D tại địa chỉ số 93/1 đường T (số cũ 58 đường A), phường B, thành phố Đ cất giấu để sử dụng dần. Từ ngày 03/8/2020 đến ngày 06/8/2020, D đã 03 lần lấy ma túy đá trong gói ma túy mua được ra sử dụng một mình. Khoảng 15 giờ, ngày 07/8/2020, bạn của D là Bùi Đức Thành C đến nhà D chơi game. Tại phòng ngủ của mình, D lấy một ít ma túy đá ra sử dụng cùng với C. Đến 16 giờ 45 phút cùng ngày, Công an phường B, thành phố Đ đến kiểm tra phòng ngủ của D phát hiện và thu giữ tang vật là một vỏ bao thuốc lá “555” bên có 01 gói nylon màu trắng trong, một đầu có khóa dạng kẹp nhựa,bên trong đựng chất tinh thể màu trắng D khai nhận là chất ma túy và 01 chai nhựa gắn ống thủy tinh là dụng cụ hút ma túy đá D cất giấu trong ngăn kéo đầu giường ngủ của mình.
Tại bản kết luận giám định số: 1443/GĐ – PC09 ngày 13/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói giấy được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 2,5064g, loại Methamphetamine (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).
Cáo trạng số 195/CT-VKSĐL ngày 04/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo D đã khai nhận toàn bộ hành vi mà mình đã thực hiện đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo, không có nội dung gì thay đổi. Bị cáo thống nhất và không thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng, không thắc mắc khiếu nại gì về kết luận giám định, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng luận tội và tranh luận đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc D về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng số 195/CT-VKSĐL ngày 04/11/2020. Qua phân tích đánh giá tính chất mức độ về hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.
Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì số 1443/2020 bên trong chứa bao gói vật chứng và chất ma tuý còn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá 555; 01 chai nhựa gắn ống thủy tinh và ống nhựa là công cụ bị cáo sử dụng cất giấu và hút ma túy. Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động dạng phím bấm hiệu Nokia màu đen của bị cáo D sử dụng vào việc phạm tội.Trả lại cho bị cáo 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Ngọc D và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội, bị cáo cam đoan không tái phạm và không vi phạm pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ kết tội bị cáo: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Nguyễn Ngọc D là đối tượng sử dụng ma túy đá từ năm 2015. Vào ngày 03/8/2020, bị cáo Nguyễn Ngọc D đến khu vực Đ, phường H, thành phố Đ mua của một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 2.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo D đem gói ma túy này về nhà tại địa chỉ số 93/1 đường T, phường B, thành phố Đ cất giấu để sử dụng dần. Đến 16 giờ 45 phút, ngày 07/8/2020, thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật là 01 gói ny long màu trắng trong bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng bị cáo D cất giấu trong phòng ngủ. Tại bản Kết luận giám định số 1443/GĐ – PC09 ngày 13/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo D đựng trong 01 gói giấy được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng:
2,5064g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc D thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong vụ án này có người thanh niên là người bán ma túy cho D, tuy nhiên D không biết gì về nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt tiếp tục tiến hành điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về quyết định hình phạt: Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ nhận thức về pháp luật, biết rõ tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe của bản thân nói riêng và đối với xã hội nói chung bởi nghiện ma túy là một trong những nguyên nhân hình thành mầm mống các tội phạm khác. Bị cáo cũng biết rõ các chất ma túy, chất gây nghiện đều do Nhà nước quản lý. Mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, tuy nhiên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuy để sử dụng là thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Việc bị cáo bị phát hiện và bắt giữ là ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi của bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo không nhằm mục đích thu lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: XÉT THẤY
- 01 phong bì số 1443/2020, phía mặt trước phong bì có ghi vụ: Nguyễn Ngọc D – 1992 QĐTC: 306;10/8/2020, Hoàn mẫu 1,9262g, phía mặt sau phong bì có chữ ký của: Phạm Thị D; Nguyễn Tùng L, Trần Đình H và có đóng dấu tròn, đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng và 01 phong bì số 1443/2020, phía mặt trước phong bì có ghi vụ: Nguyễn Ngọc D – 2000 QĐTC: 306;10/8/2020, Bao gói, phía mặt sau phong bì có chữ ký của: Phạm Thị D; Nguyễn Tùng L, Trần Đình H và có đóng dấu tròn, đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng Đây là ma tuý còn lại và bao gói vật chứng sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá 555 là công cụ bị cáo cất giấu ma túy; 01 chai nhựa gắn ống thủy tinh và ống nhựa là dụng cụ bị cáo hút ma túy đá nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động dạng phím bấm hiệu Nokia màu đen là tài sản của bị cáo D sử dụng liên lạc để mua chất ma tuý nên tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
- 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Ngọc D là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Ngọc D 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 07/8/2020.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì số 1443/2020, phía mặt trước phong bì có ghi vụ: Nguyễn Ngọc D – 1992 QĐTC: 306;10/8/2020, Hoàn mẫu 1,9262g, phía mặt sau phong bì có chữ ký của: Phạm Thị D; Nguyễn Tùng L, Trần Đình H và có đóng dấu tròn, đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng và 01 phong bì số 1443/2020, phía mặt trước phong bì có ghi vụ: Nguyễn Ngọc D – 2000 QĐTC:
306;10/8/2020, Bao gói, phía mặt sau phong bì có chữ ký của: Phạm Thị D; Nguyễn Tùng L, Trần Đình H và có đóng dấu tròn, đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng Đây; 01 vỏ bao thuốc lá 555; 01 chai nhựa gắn ống thủy tinh và ống nhựa.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động dạng phím bấm hiệu Nokia màu đen của bị cáo Nguyễn Ngọc D.
- Trả lại cho bị cáo D 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Ngọc D.
(Có đặc điểm theo các biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng).
4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 205/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 205/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về