Bản án 204/2021/HS-PT ngày 15/09/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 204/2021/HS-PT NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 178/2021/TLPT-HS ngày 28/6/2021 đối với bị cáo B Byă về tội “Môi giới mại dâm”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 145/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: B Byă (Tên gọi khác: L), sinh năm 1991; tại tỉnh Đắk Lắk Nơi cư trú: Buôn K, phường TN, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch Việt Nam; giới tính: Nữ; dân tộc: Ê đê; tôn giáo: Công giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; con ông K Kpơr và bà L1 Byă; bị cáo có chồng là T Byă và có 02 con. Con lớn sinh năm 2008; con nhỏ sinh năm 2010.

Tiền án: Không; tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020, sau đó được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, Bùi Ngọc H, Đỗ Viết C và Nguyễn Thanh Z cùng nhau đến quán dê HS, địa chỉ CT, phường TA, Tp. B để ăn uống. Tại đây, H điện thoại cho B Byă hỏi mua dâm qua đêm thì B đồng ý với giá 6.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong, khoảng 30 phút sau B đi xe taxi đến gặp H, C và Z. Tại đây, C và Z nói B Byă gọi thêm 02 gái bán dâm đến cho C, Z với giá 6.000.000 đồng/người/lần. B Byă đồng ý rồi sử dụng điện thoại mở hình ảnh của Trần Thị Tố W cho C và Z xem thì C đồng ý mua bán dâm với W. Sau đó, B gọi điện thoại cho W bằng tài khoản Shushi nói có khách muốn mua dâm với số tiền 6.000.000 đồng và nói W gọi thêm 01 gái bán dâm nữa đến cho Z và phải trả tiền công môi giới cho B Byă là 1.500.000 đồng/người thì W đồng ý gọi điện thoại thông qua ứng dụng Messenger cho Lương Thị Thanh Q rủ Q đi bán dâm qua đêm với số tiền 6.000.000 đồng nhưng phải trả tiền công môi giới 1.500.000 đồng thì Q đồng ý. Sau đó, W gửi hình ảnh Q cho B để đưa cho Z xem thì Z đồng ý mua bán dâm với Q, thống nhất xong, Z và C đưa cho B tiền mua dâm Q và W là 12.000.000 đồng, riêng B thì C còn cho thêm 1.000.000 đồng.

Khong 18 giờ 30 phút cùng ngày, W điều khiển xe mô tô chở Q đến quán dê HS gặp B, C, Z và H. Tại đây, mọi người thống nhất sẽ đến huyện J để mua bán dâm, C điều khiển xe ô tô mang biển số 47A-048.76 chở H, Z, B, W và Q đi đến khu du lịch hồ J. Trên đường đi, B nhờ Z chuyển khoản trả nợ cho bạn số tiền 1.000.000 đồng và chuyển vào tài khoản của B số tiền 5.000.000 đồng, số tiền này B đã trả lại cho Z (B lấy số tiền 6.000.000 đồng mua bán dâm trả cho Z). Khi đến khu du lịch hồ J, B và H thuê phòng 105, W và C thuê phòng 108, còn Q và Z thuê phòng 109. Tại đây, B đưa cho W tiền bán dâm là 4.500.000 đồng, đưa trước cho Q 2.000.000 đồng tiền bán dâm, rồi các cặp nam nữ vào phòng mua bán dâm với nhau.

Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày, sau khi đi ăn tối xong tất cả quay lại khách sạn, B và H đang quan hệ tình dục tại phòng 105, W và C đang quan hệ tình dục tại phòng 108, Z và Q đang quan hệ tình dục tại phòng 109, thì bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố B phối hợp với Công an huyện J, tỉnh Đắk Lắk bắt giữ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 145/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo B Byă phạm tội “Môi giới mại dâm”.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt bị cáo B Byă 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/5/2021, bị cáo B Byă kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo B Byă về tội “Môi giới mại dâm” đối với 02 người trở lên, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Xét mức hình phạt 03 năm 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội và không có tình tiết tăng nặng. Bản thân bị cáo là phụ nữ đang phải nuôi 02 con nhỏ và là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ 351, Điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo B Byă, sửa bản án sơ thẩm để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo B Byă 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo B Byă tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 16/12/2020, tại quán dê HS, địa chỉ CT, phường TA, thành phố B, bị cáo B Byă cùng với C, Z, H thỏa thuận mua bán dâm, gọi gái đến bán dâm và thống nhất địa điểm là khu du lịch hồ J, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk, để thuê phòng mua bán dâm qua đêm với giá tiền 6.000.000đồng/1 người. Ngoài ra bị cáo còn hường lợi từ việc môi giới của một gái bán dâm do bị cáo gọi đến với số tiền là 1.500.000 đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo B Byă về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy: Mức hình phạt 03 năm 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội và không có tình tiết tăng nặng. Hiện tại bị cáo đang phải nuôi 02 con nhỏ và là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo B Byă, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 145/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về phần hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo B Byă không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào Điều 351, Điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo B Byă – Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 145/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về phần hình phạt.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo B Byă (L) 03 (ba) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo B Byă không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2021/HS-PT ngày 15/09/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:204/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về