Bản án 204/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 204/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 173/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 207/2019/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng Thị V; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 01/01/1986 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản S, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá (học vấn): Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Sùng Súa C - sinh năm 1956; Con bà: Hờ Thị G - Sinh năm: 1940; Chồng: Vàng A X - Sinh năm 1987; Bị cáo có 04 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 đến ngày 20/6/2019 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Sùng Thị V: Bà Trần Thị S - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ (Có mặt).

* Người phiên dịch: Anh Lầu A S - Sinh năm 1994; Nơi công tác:

Phòng Tư pháp huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 31/5/2019 Sùng Thị V đi đào sắn một mình ở khu vực giáp ranh giữa bản S và bản G xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 25 tuổi (không biết tên, địa chỉ). Qua trao đổi V hỏi mua được của một người thanh niên đó 01cục Heroine được bọc bên ngoài bằng nilon màu trắng với gía 500.000 đồng, mục đích mang về trả công cho những người nghiện trong bản khi V thuê làm nương. Mua bán xong V cầm gói Heroine trên tay đi về nhà ở bản S, xã Na Tông, huyện Đ cất giấu vào túi áo của mình để trong phòng ngủ. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/6/2019 V mang cục Heroine ra chia nhỏ thành 09 gói đều gói ngoài bằng nilon màu trắng rồi cho vào chiếc lọ màu trắng (kích thước 3 x 2,5 x 5 cm) có nắp đậy màu V và cất giấu trong túi áo mặc trên người. Hồi 09 giờ cùng ngày, khi V đang ở nhà thì bị tổ công tác Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Đ phối hợp với đồn Biên Phòng M, phòng Trinh sát nội biên C và tội phạm, Công an xã N huyện Đ vào nhà kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ tại túi áo bên phải của V đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp xoắn màu V bên trong chứa 09 gói Heroine có khối lượng 3,28 gam (ba phẩy, hai mươi tám gam).

Tại bản kết luận giám định số: 594/GĐ-PC09 ngày 15/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Sùng Thị V gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng vật chứng thu giữ của Sùng Thị V gồm: 3,28 gam chất bột màu trắng (đã trích 0,55 gam gửi giám định không hoàn lại). Heroine nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 03/9/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ gồm: 2,73 gam Heroine còn lại sau khi giám định và 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy màu V.

Bản cáo trạng số: 172/CT-VKSĐB ngày 30/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Sùng Thị V về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Sùng Thị V với mức hình phạt từ 48 đến 54 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 3,28 gam Heroine (đã trích 0,55 gam gửi giám định không hoàn lại, còn lại 2,73 gam) là vật chứng của vụ án và 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy màu vàng.

* Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Sùng Thị V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti luận cứ bào chữa cho bị cáo Sùng Thị V ngày 25/10/2019 bà Trần Thị S đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo ở mức hình phạt có tính chất giảm nhẹ nhất; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự và miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng Thị V theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa V khai nhận vào trưa ngày 31/5/2019 tại khu vực giáp ranh giữa bản S và bản G, xã N, huyện Đ, V đã gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 25 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01cục Heroine được bọc bên ngoài bằng nilon màu trắng với gía 500.000 đồng, mục đích để trả công cho người làm thuê, sau khi mua được V mang về nhà. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/6/2019 V chia số Heroine đó thành 09 gói nhỏ (đều gói ngoài bằng nilon màu trắng) rồi cho vào chiếc lọ màu trắng có nắp đậy màu V và cất giấu trong túi áo mặc trên người. Hồi 09 giờ cùng ngày, khi V đang ở nhà thì bị tổ công tác vào nhà kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ tại túi áo bên phải của V đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp xoắn màu V bên trong chứa 09 gói Heroine có khối lượng 3,28 gam.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 04/6/2019, tại nơi ở của mình ở bản S, xã N, huyện Đ, V đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 3,28 gam Heroine với mục đích để trả công cho người làm thuê.

Như vậy, hành vi hành vi cất giấu trái phép trên người 3,28 gam Heroine với mục đích để trả công cho người làm thuê của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Điu 251 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Sùng Thị V là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Sùng Thị V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy mục đích để trả công cho người làm thuê của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Nguyên nhân chính dẫn đến phạm tội là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, trình độ nhận thức về pháp luật còn hạn chế và chỉ vì muốn có ma túy để trả công cho người làm thuê nên đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo với mức hình phạt từ 4 năm đến 04 năm 06 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật, nên cần chấp nhận.

Đi với đề nghị của người bào chữa về việc xử phạt bị cáo ở mức hình phạt có tính chất giảm nhẹ nhất của khung hình phạt, miễn hình phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, bởi bị cáo là người dân tộc thiểu số nghèo, không được đi học, không biết chữ, thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự của người bào chữa là có căn cứ chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nghề làm nương, không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,73 gam Heroine còn lại sau khi giám định và 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy màu vàng.

[6] Về các vấn đề khác: Sùng Thị V khai đã mua ma túy của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 25 tuổi (không biết tên, địa chỉ) nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm nhưng do bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: n cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Sùng Thị V phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Sùng Thị V 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam là: 16 ngày (từ ngày 04/6/2019 đến ngày 19/6/2019). Bị cáo còn phải thi hành: 03 (Ba) năm 11 (Mười một) tháng 14 (Mười bốn) ngày tù.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,73 gam Heroine còn lại sau khi giám định và 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy màu vàng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/9/2019 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng Thị V.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Sùng Thị V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/10/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:204/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về