Bản án 204/2019/HS-PT ngày 26/12/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 204/2019/HS-PT NGÀY 26/12/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 197/2019/TLPT-HS ngày 09 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo Hà Vũ H; Hà Nhật T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện PC.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. HÀ VŨ H, sinh năm 1993 tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn KA, xã CT, huyện PC, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Vũ L, sinh năm 1972 và bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1972; vợ: Hà Thị Kim A, sinh năm 1980 và có 02 người con: lớn N sinh năm 2018, nhỏ N sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt) 

2. HÀ NHẬT T, sinh ngày: 02/02/2000 tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn KA, xã CT, huyện PC, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Vũ L, sinh năm 1972 và bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1972; vợ: Chưa có; có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Gia đình ông Hà Vũ L và gia đình ông Nguyễn Duy N ở thôn KA, CT, PC có mâu thuẫn từ trước nên khoảng 20 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, khi thấy em ruột ông N là Nguyễn Nước N1 điều khiển xe mô tô đến N1 ông Hà Văn Đ, đối diện N1 ông Hà Vũ L thì con trai ông L là Hà Vũ H bước ra sân nói chuyện. Vì có sẵn mâu thuẫn nên H và N1 xảy ra cãi vả, thách đố nhau, thấy vậy, ông L gọi điện thoại cho con trai là Hà Nhật T biết. Trong lúc cải vả, H vào trong N1 lấy 01 cây rựa ra để đe dọa và tiếp tục lời qua tiếng lại với ông N1. Hà Nhật T về N1 cũng vào trong lấy 01 ống kim loại vuông cạnh 2,5cm, dài 77cm để chuẩn bị. Lúc này, giữa H và ông N1 phát sinh mâu thuẫn gay gắt, H một tay cầm rựa một tay cầm hộp chích điện lấy trong xe chạy ra đánh nhau với ông N1, vừa chạy H vừa gọi T cùng ra đánh ông N1. Nghe H gọi nên T cầm ống kim loại chạy theo, ông N1 cũng rút 01 cây gỗ tròn dài khoảng 1,5m, đường kính khoảng 02cm trong hàng rào N1 ông Đoàn đánh trả lại. Quá trình đánh nhau, T cầm ống kim loại ném trúng người ông N1 rồi quay vào N1 lấy 01 cây gỗ tròn dài khoảng 115cm, đường kính 04cm ra đánh tiếp. Trong khi đó, H đánh ông N1 lùi dần xuống phía đường Quốc lộ 1A, quá trình di chuyển H bị rơi mất hộp chích điện; khi đến ngã ba tiếp giáp đường Quốc lộ cách vị trí ban đầu khoảng 50m, H cầm rựa bằng tay trái đứng đối diện ông N1 chém từ trên xuống trúng đỉnh đầu ông N1; do cầm rựa bằng tay không thuận nên sau khi chém ông N1 thì H bị rơi rựa. Vừa lúc đó, T từ N1 cầm cây chạy ra nên H giật lấy và tiếp tục dùng cây đánh ông N1 nhưng cây bị gãy; H vứt cây lao đến ôm vật ông N1 xuống đường thì T chạy đến dùng tay đánh khoảng 5-6 cái vào người ông N1. Lúc này, có ông Nguyễn Trọng Nghĩa là anh rể của N1 ở cùng thôn chạy đến ôm lấy H nên T bỏ chạy còn H bị N1 dùng tay đánh trúng mặt 02 cái; sau đó có một số người lạ mặt đến dùng tay chân đánh H mấy cái nhưng không gây ra thương tích gì.

Hậu quả: Ông N1 bị thương được đưa đi cấp cứu tại BVĐK tỉnh Bình Định từ ngày 01/3/2019 đến 05/3/2019 thì xuất viện, sau đó tiếp tục điều trị tại TTYT huyện PC từ ngày 06/3/2019 đến 14/3/2019.

Ngày 08/4/2019, Trung T pháp y tỉnh Bình Định kết luận giám định pháp y về thương tích đối với ông Nguyễn Nước N1:

- Vết thương vùng đỉnh gây đau đầu, không yếu liệt, không tổn thương sọ và nội sọ đã điều trị. Hiện vùng đỉnh vết thương để lại sẹo rõ, mềm, không dính kích thước (6x0,5)cm; Điện não biến đổi nhẹ.

- Chấn thương gây đau hông trái đã điều trị. Hiện hông trái không có dấu vết và di chứng.

- Chấn thương gây đau vùng lưng đã điều trị. Hiện vùng lưng không có dấu vết, vận động lưng – thắt lưng trong giới hạn bình thường.

Căn cứ Bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/06/2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện PC đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hà Vũ H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hà Nhật T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 28/10/2019 các bị cáo Hà Vũ H và Hà Nhật T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Do có mâu thuẫn từ trước với gia đình ông Nguyễn Duy N, nên khi thấy ông Nguyễn Nước N1 (em ông N) thì Hà Vũ H ra gây sự với ông N1, H sử dụng rựa chém trúng đỉnh đầu ông N1; dùng cây gỗ đánh ông N1, Hà Nhật T cầm ống kim loại ném trúng người ông N1. Hà Vũ H và Hà Nhật T gây thương tích cho ông N1 với tỷ lệ thương tật là 13%. Do đó, cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo yêu cầu xin giảm hình phạt của các bị cáo, hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T đã sử dụng hung khí là rựa, cây gỗ, ống kim loại gây thương tích cho bị hại Nguyễn Nước N1 với tỷ lệ thương tật là 13%. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Vụ án này chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ, trong đó bị cáo H là trực tiếp gây thương tích chính cho bị hại, bị cáo T là người giúp sức tích cực gây thương tích cho bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, đã xem xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường khắc phục một phần hậu quả, xử phạt bị cáo Hà Vũ H 12 tháng tù, bị cáo Hà Nhật T 9 tháng tù (dưới mức khởi điểm của khung hình phạt) là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ nào khác để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T.

[3] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị giữ nguyên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hà Vũ H 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hà Nhật T 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

[2] Về án phí: Các bị cáo Hà Vũ H, Hà Nhật T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSPT.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2019/HS-PT ngày 26/12/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:204/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về