Bản án 204/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 204/2017/HSST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại Tru sơ Nhà v ăn hóa phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 226/2017/HSST, ngày 07/9/2017 đối với bị cáo:

Dương Văn T, sinh năm 1992; Giới tính: Nam; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Xóm L, Xã U, Huyện P, Tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn A, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1970; Vợ: Lý Thị H, sinh năm 1993, Có 01 con, sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Danh chỉ bản số 0409 lập ngày 04/7/2017 tại Công an quận Nam Từ Liêm; Bắt tạm giam ngày 26/6/2017 – Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14h00’ ngày 26/6/2017, tại khu vực trước cửa tòa nhà G, đường M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường M tiến hành kiểm tra hành chính xe ô tô taxi, BKS 30A-53435 phát hiện Dương Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; vật chứng thu giữ:

- 01 gói nhỏ giấy bạc kích thước (0,5x0,5)cm bên trong gói giấy có chứa chất bột màu trắng;

- 01 xilanh nhựa loại 03ml đã qua sử dụng.

Bản kết luận giám định số 4262/KLGĐ-PC54 ngày 13/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng (thu giữ của Dương Văn T) là ma túy loại heroine, trọng lượng 0,180 gam; 01 xilanh nhựa loại 03ml có dính ma túy loại heroine.

Tại cơ quan điều tra, Dương Văn T khai nhận: Khoảng 09h00’ ngày 26/6/2017, T đến bến xe khách T, tỉnh T để kiếm việc làm thì gặp 01 nam thanh niên. Qua nói chuyện biết T có sử dụng ma túy, nam thanh niên gợi ý bảo T xuống Hà Nội làm quán karaoke cùng thì sẽ mua ma túy và quần áo cho T. T đồng ý. Sau đó, nam thanh niên đi ra ngoài, khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho T 01 gói giấy bạc bên trong có ma túy heroine và bảo T cầm lấy để sử dụng. T nhận gói ma túy rồi đi bộ ra hiệu thuốc gần cổng bến xe khách mua 01 xilanh, kim tiêm và nước cất mang vào nhà vệ sinh của bến xe lấy một phần heroine ra để sử dụng. Số ma túy còn lại T cất giấu cùng xilanh vào túi quần bên phải. Khoảng 10h00’ cùng ngày, T và nam thanh niên thuê xe taxi xuống Hà Nội. Đi đến đường vành đai 3 đường trên cao đoạn cầu L, H, Hà Nội, T và nam thanh niên xuống. Sau đó nam thanh niên cùng T tiếp tục thuê xe taxi đi về hướng Mỹ Đình. Khi xe taxi về tới đường Mễ Trì gần tòa nhà Golden Place thì nam thanh niên yêu cầu dừng xe và xuống xe để gọi điện thoại. Trong thời gian này tổ công tác Công an phường M kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép chất ma túy cùng vật chứng.

Về đối tượng thanh niên mua cho Dương Văn T ma túy để sử dụng, Cơ quan điều tra tiến hành rà soát xung quanh khu vực trước cửa tòa nhà G nhưng không phát hiện được, do vậy không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 205/CT-VKS ngày 31/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thì Dương Văn T bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo T khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Dương Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ. 12 tháng đến 15 tháng tù, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy ma túy và 01 xi lanh đã thu giữ

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14h00’ ngày 26/6/2017, tại khu vực trước cửa tòa nhà G, đường M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội, Dương Văn T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,180 gam ma túy loại heroine mục đích để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an phường M, quận N, thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như cáo trạng của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ phù hợp pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để sử dụng. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đồng thời căn cứ vào khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ nhỏ, Hội đồng xét xử áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội quy định về áp dụng Bộ luật hình sự 2015, để áp dụng mức hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng vụ án: Số ma túy và 01 xilanh nhựa cho tịch thu tiêu hủy. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Dƣơng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2- Áp dụng: - Khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 41; Điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự;

- Điều 76; Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội

Xử phạt Dương Văn T, 12 ( Mười hai) tháng tù.. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2017.

* Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy và 01 xi lanh nhựa có chữ ký giáp lai của Dương Văn T và giám định viên.

Theo biên bản giao vật chứng số 200 ngày 06/9/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm.

* Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:204/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về