Bản án 203/2020/HS-PT ngày 14/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NNG

BẢN ÁN 203/2020/HS-PT NGÀY 14/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 167/2020/TLPT-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo Võ Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Võ Văn H (T) - sinh ngày 26 tháng 4 năm 1991 tại Đà Nẵng. Nơi cư trú: Tổ 32 (mới), tổ 22 (cũ), phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Th (còn sống) và bà Nguyễn Thị Bích L (còn sống). Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Trần Thị H (không đăng ký kết hôn) và có 01 con (sinh năm 2012);

Tiền án: - Năm 2013 bị TAND Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số 49/2013/HSST ngày 27/6/2013);

- Năm 2017 bị TAND TP. Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số 54/2017/HSST ngày 15/7/2017 của TAND Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng và BA số 190/2017/HSPT của TAND TP. Đà Nẵng). Trở về địa phương năm 2020 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 333 ngày 30/4/2020);

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam 24/5/2020, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 24/5/2020, tại khu vực trước khách sạn N trên đường H thuộc phường K, quận N, TP. Đà Nẵng, Đội CSĐT tội phạm về ma túy, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng phối hợp với lực lượng 911 Công an TP. Đà Nẵng bắt quả tang Võ Văn H đang cất giấu 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven bên trong có 01 gói ni lông chứa tinh thể rán, màu trắng (theo H khai là ma túy đá).

Ngoài ra, trong lúc bắt quả tang còn có Lâm Đại Q và đối tượng tên B (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đi cùng với H nhưng khi thấy Công an đến, B bỏ chạy thoát và vứt lại hiện trường 01 gói ni lông bên trong chứa tinh thể rắn, màu trắng (nghi là ma túy).

Vật chứng thu giữ: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven bên trong có 01 gói ni lông chứa tinh thể rắn, màu trắng (Hl); 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, BKS: 43B1- 027.00 và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone gắn sim số 0935036327; Tại hiện trường: 01 gói ni lông bên trong chứa tinh thể rắn, màu trắng (H2);

Theo Kết luận giám định số 168 ngày 28/5/2020 của Phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng xác định: Tinh thể màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu H1 và H2 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu H1: 0,703 gam; H2: 0,401 gam

Quá trình điều tra, Võ Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 23/5/2020, Võ Văn H, Lâm Đại Q, Đỏ L, B (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) ngồi nhậu tại khu vực gần chợ cấm Lệ. Tại đây, H, Q và B rủ nhau sử dụng ma túy. Sau đó, H, Q và B đến khu vực đường X thì B nói H và Q đứng đợi để B đi mua ma túy (B không nói cho H và Q biết việc mua ma túy của ai, ở đâu). Khoảng 15 phút sau B quay lại, cả ba tiếp tục đến đường H để tìm nơi sử dụng ma túy. Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 24/5/2020, khi đến trước khách sạn N thì Q vào thuê phòng, còn H và B đứng ngoài đợi. Lúc này, B đưa cho H01 gói ma túy (để trong vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven), H vừa cất giấu vào túi quần thì bị Công an phát hiện bắt quả tang nên H lấy gói ma túy vứt xuống đất, còn B bỏ chạy thoát và vứt lại hiện trường 01 gói ni lông bên trong có chứa ma túy.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 58/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã quyết định:

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Văn H 5 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/5/2020.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 05/10/2020, bị cáo Võ Văn H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

+ Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo là đảm bảo hợp lệ.

+ Về nội dung kháng cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có cơ sở nên mức án 5 năm tù mà Tòa cấp sơ thẩm đã quyết định là phù hợp; bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nào. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Võ Văn H thừa nhận hành vi phạm tội và tội danh án sơ thẩm đã kết luận là đúng; giữ nguyên nội dung kháng cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Bản án sơ thẩm đã kết luận. Với hành vi tàng trữ trái phép 0,703 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng; bị cáo Võ Văn H bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng pháp luật. Do bị cáo có nhân thân xấu, đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích mà vẫn tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp “đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, có mức phạt từ từ 5 năm đến 10 năm tù là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử nghiêm.

Xét các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật; đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng cũng như có xét đến nhân thân của bị cáo để xử phạt mức án 5 năm tù là phù hợp, không nặng, chỉ là mức án khởi điểm của khung hình phạt. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, mà cần giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vĩ các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Văn H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Võ Văn H 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/5/2020.

3. Về án phí: Bị cáo Võ Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2020/HS-PT ngày 14/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:203/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về