Bản án 202/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH Đ

BẢN ÁN 202/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 08 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 842/2020/TLST – HNGĐ ngày 10 tháng 03 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/06/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 235/2020/QĐST – HNGĐ ngày 17/07/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Bà Lê Thị Th, sinh năm 1992.

- Bị đơn : Ông Lê Văn Q, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Tổ 4, Khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đ (Bà Th có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Q vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Lê Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND Xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh T vào năm 2010. Quá trình chung sống không hạnh phúc vì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cãi vả, xung đột với nhau, mặt khác chồng thiếu trách nhiệm, không tôn trọng vợ. Vì không muốn đỗ vỡ, cả hai đã nhiều lần ngồi lại để hàn gắn với nhau nhưng không có kết quả. Nay, nhận thấy tình cảm với chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Lê Văn Q.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Lê Thị Khánh Ly, sinh ngày 29/6/2010 và Lê Việt Hoàng Anh, sinh ngày 01/11/2015. Ly hôn bà xin được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Ly và cháu Anh, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng cho con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Lê Văn Q: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Tùng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:

Veà vieäc kieåm saùt chaáp haønh phaùp luaät toá tuïng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về vieäc giải quyết tranh chaáp: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà Th xác định nợ chung vợ chồng bà không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông Lê Văn Q vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông Q, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Lê Thị Th phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Lê Thị Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Văn Q; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Th là nguyên đơn còn ông Q là bị đơn trong vụ án.

- Ông Lê Văn Q có địa chỉ cư trú hiện nay tại số: Tổ 4, Khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ. Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Q tại địa chỉ này, nhưng ông Q vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, bà Th cũng có đơn xin vắng mặt tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà Th và ông Q.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Th và ông Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2010. Quá trình chung sống không hạnh phúc vì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cãi vả, xung đột với nhau, mặt khác chồng thiếu trách nhiệm, không tôn trọng vợ. Vì không muốn đỗ vỡ, cả hai đã nhiều lần ngồi lại để hàn gắn với nhau nhưng không có kết quả. Nay, nhận thấy tình cảm với chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Lê Văn Q. Xét yêu cầu ly hôn của bà Th là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, Q trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống bà Th xác nhận từ đầu cả hai đã không hạnh phúc nguyên nhân là ông Q thiếu trách nhiệm, dẫn đến không tôn trọng và yêu thương giữa chồng với vợ, cuộc sống và mục đích hôn nhân không đạt được. Theo Biên bản xác minh của Công an phường Trảng Dài thì hiện nay ông Lê Văn Q vẫn đang cư trú tại và sinh sống tại địa chỉ: Tổ 4, Khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đ, nhưng quá trình làm việc, mặc dù ông Q đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhiều lần, nhưng đều cố ý vắng mặt, thể hiện việc không có ý định muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, có thể thấy việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa ông Q và bà Th là có thật, đời sống chung không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Lê Thị Th được ly hôn với ông Lê Văn Q.

[3]. Về con chung: Ông Q và bà Th có Có 02 con chung là cháu Lê Thị Khánh Ly, sinh ngày 29/6/2010 và Lê Việt Hoàng Anh, sinh ngày 01/11/2015. Ly hôn bà xin được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Ly và cháu Anh, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng cho con chung. Xét yêu cầu của bà Th là có căn cứ chấp nhận, bỡi lẽ hiện nay các cháu Ly và Hoàng Anh vẫn đang do bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; đồng thời bà Th cũng cam kết trong bản khai rằng mức thu nhập của bà đủ điều kiện để chăm sóc con. Cháu Ly cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Do đó, để đảm bảo về sự ổn định cuộc sống của cac cháu Ly và Anh, xét cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; chấp nhận yêu cầu của bà Th, giao các con cho bà Th được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng; Tạm thời bà Th không yêu cầu ông Q phải cấp dưỡng nuôi con chung. Vì không trực tiếp nuôi con nên ông Q được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên do ông Lê Văn Q vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông Q, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Lê Thị Th phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Th được ly hôn với ông Lê Văn Q.

Về con chung: Giao các cháu cháu Lê Thị Khánh Ly, sinh ngày 29/6/2010 và Lê Việt Hoàng Anh, sinh ngày 01/11/2015 cho bà Lê Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Lê Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con, nên ông Q được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên do ông Lê Văn Q vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông Q, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

- Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Th phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0008606 ngày 02/03/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà Th đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

- Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Th và ông Lê Văn Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 202/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:202/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về