Bản án 202/2019/HS-PT ngày 22/04/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 202/2019/HS-PT NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 124/2019/HSPT ngày 04/3/2019 đối với bị cáo Ngô Bùi Văn Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Ngô Bùi Văn Đ (tên gọi khác: Tí Anh); sinh ngày 20/5/1989; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; thường trú: 01 HT, Phường 14, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn X và bà Bùi Thị Z; vợ: Hồ Thị R; con: có 02 người con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh 2013; tiền án, tiền sự: không;

- Nhân thân: Ngày 20/5/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án số 54/2014/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù và toàn bộ bản án ngày 31/8/2015.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/8/2018 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

+Bị hại: Chị Võ Tuyết N, sinh năm 1991; địa chỉ: 01 Quốc lộ 02, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02h00’ ngày 03/8/2018, Ngô Bùi Văn Đ điều khiển xe gắn máy hiệu HAYATE biển số 59N1-251.xx đi qua nhiều tuyến đường trên địa bàn Quận M tìm người có tài sản sơ hở để cướp giật. Khi Đ đi đến đường TQP thì phát hiện chị Võ Tuyết N đang điều khiển xe gắn máy, trên vai có đeo 01 túi xách (loại túi có dây đeo, phần thân túi chị N để phía trước, trên 02 chân) nên Đ bám theo. Khi đến khu vực giao lộ đường TQP và HB, Phường 12, Quận M, Đ tăng ga điều khiển xe áp sát phía bên phải xe và dùng tay phải giật đứt túi xách của chị N rồi tăng ga xe để tẩu thoát. Lúc này, chị N tri hô cùng quần chúng nhân dân đuổi theo Đ đến khu vực giao lộ Đỗ Ngọc Thạnh và Hồng Bàng thì Đ va chạm với xe ô tô (không rõ biển số) làm xe của Đ điều khiển ngã xuống đường, Đ bỏ xe gắn máy chạy bộ thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ cùng vật chứng đưa đến Công an Phường 12, Quận M lập hồ sơ xử lý.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận M, Ngô Bùi Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi cướp giật túi xách như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi xách màu đen, bên trong có: 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung Tab A 2017, số IMEI: 358525080272630; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7, số IMEI 1: 352808091046367, số IMEI 2: 352808091046365; 01 (một) ví da màu xanh bên trong có số tiền 200.000 đồng; 01 (một) bản photocopy giấy Chứng minh nhân dân; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63B9-223.44; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63F1-9000; và 01 (một) xe mô tô hiệu HAYATE biển số 59N1-251.48, số khung 0B0-163571, số máy: 4F4-113048.

Tại bản kết luận Đ giá tài sản số 126/HĐG ngày 17/9/2018 của Hội đồng Đ giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 5, kết luận: 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung Tab A 2017 có trị giá 3.000.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus có trị giá 3.000.000 đồng; 01 (một) túi xách da màu đen và 01 (một) ví da màu xanh do không xác Đ được xuất xứ và nhãn hiệu nên không tiến hành Đ giá được. Tổng trị giá tài sản Đ giá là 6.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Võ Tuyết N đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định: Tuyên bố bị cáo Ngô Bùi Văn Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Ngô Bùi Văn Đ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy Đ của pháp luật.

Ngày 29/01/2019, bị cáo Ngô Bùi Văn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bản án sơ thẩm xử phạt quá nghiêm khắc.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Ngô Bùi Văn Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì tài sản đã thu hồi toàn bộ trả lại cho bị hại.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đã kết luận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Ngô Bùi Văn Đ về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong thời gian luật định và hợp lệ nên cần được xem xét.

Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt án sơ thẩm đã nhận Đ về các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại theo quy Đ tại các điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Mức án 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Ngô Bùi Văn Đ là thỏa đáng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tuyên xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Bùi Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận bổ sung, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bản thân bị cáo bị bệnh nên sức khỏe yếu và có 02 con còn nhỏ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Bùi Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm, phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ tài liệu – đồ vật, lời khai của (bị hại và người làm chứng) cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 02h00’ ngày 03/8/2018, bị cáo Ngô Bùi Văn Đ đã có hành vi điều khiển xe gắn máy bất ngờ áp sát, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản là 01 (một) túi xách màu đen (bên trong có: 01 máy tính bảng hiệu Samsung Tab A 2017, 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 và 01 ví da màu xanh bên trong có số tiền 200.000 đồng, cùng một số giấy tờ) của chị Võ Tuyết N, rồi tăng ga phóng nhanh để tẩu thoát; tại giao lộ đường TQP – Hồng Bàng, Phường 12, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tài sản bị cáo chiếm đoạt: Theo bản kết luận Đ giá tài sản số 126/HĐG ngày 17/9/2018 của Hội đồng Đ giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 5, kết luận có tổng trị giá tài sản là 6.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Bùi Văn Đ là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và gây hoang mang cho quần chúng nhân dân, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng với động cơ vụ lợi bất chính vẫn cố ý phạm tội.

Xét khi phạm tội, bị cáo Ngô Bùi Văn Đ đã sử dụng xe gắn máy có phân khối lớn làm phương tiện di chuyển để bất ngờ áp sát, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của bị hại cũng đang điều khiển xe gắn máy lưu thông trên đường, rồi tăng ga phóng nhanh để tẩu thoát; đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của bị hại cũng như những người tham gia giao thông; nên theo quy Đ tại Mục I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLL-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 15/12/2001 của Tòa án nhân dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp thì bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp“dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết Đ khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Với trị giá tài sản chiếm đoạt và hành vi của bị cáo nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo Ngô Bùi Văn Đ phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/01/2019, bị cáo Ngô Bùi Văn Đ có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn luật định và hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Xét khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận Đ về các tình tiết: tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và tài sản đã thu hồi toàn bộ trả lại cho bị hại nên xem như chưa gây thiệt hại để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy Đ tại các điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); và về nhân thân bị cáo từng bị xét xử về tội “Cướp giật tài sản”, đã được giáo dục, răn đe nhưng không coi đó là bài học để cải tạo, sửa chữa thành người có ích cho xã hội. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội, thể hiện thái độ xem thường pháp luật.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Ngô Bùi Văn Đ mức án 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù là thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo; mới đủ tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Xét kháng cáo của bị cáo Ngô Bùi Văn Đ xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới và các tình tiết bị cáo nêu ra đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ, toàn diện khi quyết định hình phạt; nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

+Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Bùi Văn Đ và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Bùi Văn Đ (tên gọi khác: Tí Anh) phạm tội “Cướp giật tài sản” + Căn cứ vào điểm d Khoản 2 Điều 171; các điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Ngô Bùi Văn Đ (tên gọi khác: Tí Anh) 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 08/8/2018.

+Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy Đ về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ngô Bùi Văn Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 202/2019/HS-PT ngày 22/04/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:202/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về