Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp ly hôn, con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG 

Hôm nay, ngày 28/5/2021 tại trụ sở TAND huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 50/2021/ TLST-HNGĐ ngày 17/3/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26 ngày 28/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Thành Ngh, Sinh năm 1982. Địa chỉ: Xóm H B, xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Chị Hà Thị Hồng Ng - sinh năm 1986.

Địa chỉ: Xóm H B, xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay: Xóm V, xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ. (Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vẫn vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai tiếp theo anh Lê Thành N trình bày: Anh và chị Ng kết hôn năm 2006, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh tại xóm H, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Vợ chồng chung sống hòa thuận từ khi cưới đến cuối năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, mặc dù vợ chồng đã ngồi nói chuyện tình cảm với nhau nhưng không cải thiện được quan hệ giữa vợ chồng. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng và đỉnh điểm là cuối năm 2019, chị Ng tự ý rời nhà đi về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng cũng sống ly thân luôn từ đó. Từ sau khi ly thân vợ chồng không có liên hệ gì với nhau nữa, anh cũng không biết chị Ng ở đâu, làm gì. Nay anh Ngh xác định tình cảm với chị Ngkhông còn, hạnh phúc gia đình không có nên xin ly hôn để giải phòng cho nhau để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Anh Ngh trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Minh C, sinh ngày 21/10/2006 và cháu Lê Đức Ch, sinh ngày 03/9/2008, hiện nay hai cháu đang ở cùng với anh Ngh tại xóm H, xã Võ miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Khi ly hôn anh Ngh xin được trực tiếp nuôi hai con chung đến khi thành niên, anh tự nguyện không yêu cầu chị Ngcấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Anh Ngh trình bày không có, ly hôn anh không có đề nghị gì.

*Bị đơn chị Hà Thị Hồng Ng đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo qui định nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không đến Tòa án. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi cư trú của bị đơn và thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng thông qua bố mẹ đẻ chị Ng, kết quả như sau:

Ngày 31/3/2021, Tòa án đã lập biên bản làm việc tại gia đình chị Ngcó sự tham gia của bố mẹ đẻ chị Ng là ông Hà Tiến T và bà Dương Thị T cho biết: Chị Hà Thị Hồng Ng và anh Lê Thành N được gia đình tổ chức cho xây dựng gia đình vào năm 2006. Sau kết hôn chị Ng và anh Ngh về chung sống ở gia đình anh Ngh tại xóm H, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì sẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ngh có quan hệ với người khác (do chị Ng nói lại) dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn chị Ng đã bỏ về nhà bố mẹ để chị Ng ở từ cuối năm 2019 và vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Khi mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ng và anh Ngh sẩy ra đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần, nhưng vợ chồng không hàn gắn được hạnh phúc gia đình. Năm 2019 anh Ngh có làm đơn ra tòa án huyện Thanh Sơn để giải quyết ly hôn với chị Ng, nhưng sau đó lại rút đơn về hàn gắn tình cảm. Khi anh Ngh làm đơn xin ly hôn chị Ng tại Tòa án huyện Thanh Sơn, gia đình ông bà đã biết và đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Tòa án. Ông bà có thông báo cho chị Ng biết việc anh Ngh xin ly hôn, chị Ng có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh Ngh được ly hôn theo quy định của pháp luật. Do chị Ng đang đi làm ăn, không có địa chỉ cụ thể nhưng thỉnh thoảng chị Ng vẫn về thăm nhà và liên lạc với ông bà qua điện thoại. Còn việc chị Ng có đến Tòa án làm việc không gia đình bà cũng không nắm được. Quan điểm của ông bà là đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn theo quy định pháp luật, để ổn định cuộc sống đảm bảo quyền lợi ích của con chưa thành niên.

Quan điểm của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi nhận được các thông báo cũng như các quyết định của Tòa án, không đến Tòa án theo giấy triệu tập.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 – Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Chấp nhận đơn khởi kiện: Xử cho anh Lê Thành N được ly hôn với chị Hà Thị Hồng Ng.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Minh C, sinh ngày 21/10/2006 và cháu Lê Đức Ch, sinh ngày 03/9/2008 cho anh Ngh được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc . Chị Ngkhông phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Ngh do anh Ngh không yêu cầu.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết vì anh Ngh không yêu cầu.

- Về án phí: Anh Ngh phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Anh Lê Thành N và chị Hà Thị Hồng Ng đều có nơi cư trú tại xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Anh Ngh làm đơn xin ly hôn chị Ngvà đề nghị Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân và con chung . Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35- BLTTDS, tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

Xét về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 26/5/2021, anh Lê Thành N nộp đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại Tòa án. Chị Hà Thị Hồng Ng được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1+3 Điều 228; Điều 238- Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[1]. Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngh và chị Ng có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình, anh chị đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, nhưng khi chung sống cả hai không cùng nhau vun đắp xây dựng mối quan hệ hôn nhân của mình bền vững, hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân đó đã bị đổ vỡ, nguyên nhân do cả hai không biết trân trọng cuộc sống hôn nhân của mình và cho rằng tính tình không hợp nhau, quan điểm sống khác nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm, không tôn trọng, tin tưởng nhau.Vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài, không cùng thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án và lời trình bày của bố mẹ chị Ng- ông Hà Tiến T, bà Dương Thị T (BL25, 26,27,28, 29) phù hợp với trình bày của anh Ngh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, đủ cơ sở chứng minh: Mâu thuẫn vợ chồng anh Ngh, chị Ng xảy ra đã nhiều năm, cuộc sống chung của vợ chồng đã trầm trọng, thực tế cuộc hôn nhân không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn chị Ngcủa anh Ngh là có căn cứ qui định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con chung của anh Ngh là chính đáng bởi lẽ: Từ khi chị Ng bỏ nhà đi ( Năm 2019), hai con chung của anh chị vẫn do anh Ngh chăm sóc nuôi dưỡng. Chị Ng thường xuyên đi làm ăn xa, chỗ ở không ổn định, hai con chung của anh Ngh, chị Ng đều có nguyện vọng ở với bố. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các cháu cần giao cả hai con con chung của anh chị là cháu Lê Minh C, sinh ngày 21/10/2006 và cháu Lê Đức Ch, sinh ngày 03/9/2008, cho anh Ngh tiếp tục nuôi dưỡng kể từ tháng 5/2021 cho đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Anh Ngh không yêu cầu chị Ng phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ với con chung, không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Vì chị Ng vắng mặt không có quan điểm và anh Ngh xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[3] Về án phí: Anh Ngh phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 1+2 Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử: Cho anh Lê Thành N được ly hôn với chị Hà Thị Hồng Ng.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Minh C, sinh ngày 21/10/2006 và cháu Lê Đức Ch, sinh ngày 03/9/2008 cho anh Lê Thành N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc kể từ tháng 5/2021 cho đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Chị Ngkhông phải cấp dưỡng nuôi con chung .

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản .

4. Về án phí: Anh Lê Thành N phải nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí anh Ngh đã nộp tại biên lai số AA/2020/0003446 ngày 17/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, thành án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp ly hôn, con chung

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về