TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN GIỮA ÔNG T VÀ BÀ H
Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 423/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 277/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông N N T, sinh năm 1980 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 26-10-2020) Nơi cư trú: Tổ 24, ấp P H 2, xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang.
2.Bị đơn: Bà N T T H, sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 26, ấp P H 2, xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện xin ly hôn, Tờ tự khai ngày 27-7-2020, nguyên đơn ông N N T trình bày:
+Về hôn nhân: Ông và bà N T T H kết hôn vào năm 2005, hôn nhân do quen biết, không tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang số 103 ngày 23-7-2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 5 năm, thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng hay cải nhau. Vợ chồng sống ly thân khoảng 10 năm nay. Nay ông nhận thấy không còn tình cảm với bà H, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với bà N T T H.
+Về con chung: Có 01 con chung tên N N H M, sinh ngày 02-02-2007.
Hiện ông đang nuôi con. Nếu ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.
+Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và 2 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bà N T T H, nhưng bà H vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Ngày 25-12-2020, Tòa án đến nhà bà H để ghi lời khai, nhưng bà H vắng mặt tại nhà nên không ghi nhận được ý kiến của bà H.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25-12-2020, người làm chứng bà N T T trình bày: Bà là mẹ ruột của N T T H, H đang làm công nhân tại tỉnh Bình Dương. Bà có nhận được Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án. Bà có báo cho H biết. T – H kết hôn vào năm 2006, hôn nhân do quen biết, không tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang. T – H sống ly thân đã 7 năm nay rồi. Do gia đình bên chồng khắt khe, không thể sống chung được. Theo bà T – H không thể đoàn tụ được. T – H có 01 con chung tên N N H M, sinh ngày 02-02-2007, hiện T đang nuôi con. T – H không có tài sản chung, không nợ ai.
Tại Tờ trình bày ý kiến ngày 18-02-2021, cháu N N H M trình bày: Cháu đang sống với cha, cháu được đi học, cháu đang học lớp 8 trường Trung học cơ sở V T, huyện T S, tỉnh An Giang. Hiện cháu đã nghỉ học đi học nghề. Cha mẹ không sống chung đã 8 năm nay rồi. Nếu cha mẹ cháu Ly hôn cháu có nguyện vọng sống với cha.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:
1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.
2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung tiếp tục ổn định cho ông T nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn ông N N T, bị đơn bà N T T H, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa; nguyên đơn ông T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn bà H vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn ông T và bị đơn bà H.
[2] Về hôn nhân: Ông N N T và bà N T T H kết hôn vào năm 2005, hôn nhân do quen biết, không tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang số 103 ngày 23-7-2007 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Ông T có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa ông T và bà H; ông T có yêu cầu không tham gia hòa giải, bà H vắng mặt 2 lần nên không hòa giải được.
Xét thấy: Cách đây 7 năm giữa ông T bà H phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Từ khi sống ly thân đến nay cả ông T và bà H đều không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25-12-2020, bà N T T là mẹ ruột của bà H trình bày theo bà T – H không thể đoàn tụ được. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa ông T và bà H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông T được ly hôn với bà H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Ông N N T và bà N T T H có 01 con chung. Khi ly hôn ông T có yêu cầu được tiếp tục nuôi con, bà H không có ý kiến.
Xét thấy: Cháu M đã trên 14 tuổi, ông T nuôi con chu đáo, bà H không tranh chấp việc nuôi con và cháu M có nguyện vọng sống với ông T khi ông T bà H ly hôn. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho ông T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp.
Ông N N T và các thành viên trong gia đình ông T không được cản trở bà N T T H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Bà N T T H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của bà H theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông N N T không yêu cầu bà N T T H cấp dưỡng nuôi con. Bà H không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Ông N N T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà N T T H không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn ông N N T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007306 ngày 26-10-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn ông N N T, bị đơn bà N T T H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự:
Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:
[1] Về hôn nhân: Ông N N T được ly hôn với bà N T T H.
Giấy chứng nhận kết hôn số 103 ngày 23-7-2007 của Ủy ban nhân dân xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
[2] Về con chung: Ông N N T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên N N H M, sinh ngày 02-02-2007.
Ông N N T và các thành viên trong gia đình ông T không được cản trở bà N T T H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Bà N T T H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của bà H theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về án phí: Nguyên đơn ông N N T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007306 ngày 26-10-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông N N T, bị đơn bà N T T H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn giữa ông T và bà H
Số hiệu: | 20/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về