Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19/01//2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1053/2020/TLST-HNGĐ ngày 05/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 415/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/12/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-HN ngày 06/01/2021 giữa:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Tuyết N, sinh năm 1983;

Bị đơn: Ông Huỳnh Trúc P, sinh năm 1983;

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Đức Hòa, Long An.

(Bà N có mặt, Ông p vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 16/9/2020 và quá trình giải quyết vụ án, bà Phạm Thị Tuyết N trình bày:

Bà và Ông p chung sống với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại vào năm 2009 tại UBND xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Thời gian đầu, vợ chồng sống chung hạnh phúc nhưng về sau thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, Ông p không chí thú làm ăn nên đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay bà yêu cầu được ly hôn với Ông p.

Về nuôi con chung: Bà N khai bà và Ông p có 02 con chung là cháu Huỳnh Đăng K sinh năm 2008 và Huỳnh Phát Đ sinh năm 2010. Hiện cháu K đang sống với bà còn cháu Đ hiện do Ông p đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà đồng ý giao cháu Đạt cho Ông p được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khoa. Không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Huỳnh Trúc P vắng mặt nhưng tại bản tự khai ngày 10/11/2020 ông trình bày: Ông thống nhất với ý kiến và lời trình bày của Bà N về thời gian điều kiện kết hôn, con chung là đúng. Ông cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng. Nay N xin ly hôn, ông không đồng ý, ông xin hàn gắn vì cho rằng còn thương vợ, thương con.

Tòa án tiến hành hòa giải được do nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện không bổ sung ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai công khai tại phiên toà, trên cơ sở trình bày của đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng, thẩm quyền giải quyết vụ án, Bà Phạm Thị Tuyết N xin ly hôn với ông Huỳnh Trúc P. Ông p hiện có hộ khẩu thường trú tại ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, Long An. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Ông p vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập nên căn cứ vào Điều 228, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân, Bà Phạm Thị Tuyết N và ông Huỳnh Trúc P chung sống với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn vào năm 2009 là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Trước tòa, Bà N xác định không còn tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cương quyết xin ly hôn với Ông p; Ông p có ý kiến là không đồng ý ly hôn và tha thiết xin đoàn tụ.

Xét thấy, theo như lời trình bày của Bà N thì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nguyên do là do cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên cải vả nhau, vợ chồng không tìm tìm được tiếng nói chung, Đối với Ông p không đồng ý ly hôn nhưng từ khi ly thân cho đến nay, cả hai đặc biệt là phía Ông p cũng không có biện pháp gì để hàn gắn, đoàn tụ.

Từ những phân tích trên, thấy rằng cuộc sống vợ chồng giữa Bà N và Ông p không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc Bà N xin ly hôn là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà N khai bà và Ông p có 02 con chung là các cháu Huỳnh Đăng Khoa, sinh năm 2008 và Huỳnh Phát Đạt, sinh năm 2010. Khi ly hôn, bà xin giữ nguyên tình trạng nuôi con, mỗi người nuôi 01 đứa con, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

Xét thấy, các cháu Khoa và cháu Đạt hiện đã đủ 07 tuổi, cháu Khoa cháu có nguyện vọng sống với Bà N; cháu Đạt có nguyện vọng sống với Ông p khi cha, mẹ ly hôn. Do vậy, Hội đồng xét xử giữ giao cháu K cho Bà N, giao cháu Đcho Ông p được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu, phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng: Không đương sự nào yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N khai không có, Ông p không có ý kiến phản hồi gì về vấn đề này. Trường hợp các bên có phát sinh tranh chấp tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác nếu có căn cứ.

[3]. Về án phí: Bà Phạm Thị Tuyết N phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 35, 63, 146, 222, 227, 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 85 và 86 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị Tuyết N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Tuyết N được ly hôn với ông Huỳnh Trúc P.

2. Về con chung: Bà Phạm Thị Tuyết N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Huỳnh Đăng K, sinh năm 2008. Ông Huỳnh Trúc P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Huỳnh Phát Đ, sinh năm 2010.

Không bên nào cấp dưỡng nuôi con Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức hoặc cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

3. Về án phí:

Bà Phạm Thị Tuyết N phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 6458 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, sang án phí để thi hành.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm tuyên án công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về