Bản án 20/2021/DS-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 20/2021/DS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 01 năm 2021 về Tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2021/DSST ngày 25/5/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP M;

Địa chỉ: Đường T, phường L, quận D, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông N.H.L – Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông N.D.K, ông N.N.T, bà N.T.V và ông N.T.T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn L.Đ.K, sinh năm 1970;

Địa chỉ: Đường T, phường L, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê T.D.H, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Đường T, phường L, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/11/2020 và bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – Ông N.D.K trình bày:

Ngày 22/8/2016, Ngân hàng TMCP M ký kết với ông Nguyễn L.Đ.K hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV, kèm theo là Khế ước nhận nợ với thỏa thuận về số tiền vay là 115.000.000 đồng nhằm mục đích sửa chữa nhà ở, thời hạn vay 60 tháng, lãi suất vay 17%/ năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn; phương thức tính tiền lãi trên cơ sở dư nợ gốc giảm dần và số ngày vay thực tế trên cơ sở một năm có 360 ngày, một tháng có 30 ngày. Hình thức trả nợ gốc và lãi là nợ gốc và lãi trả đều hàng tháng, kỳ hạn trả nợ là 60 kỳ và số tiền gốc phải trả mỗi kỳ là 1.916.667 đồng, thời điểm bắt đầu trả lần đầu tiên là ngày 22/9/2016.

Sau khi ký kết hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ, Ngân hàng TMCP M đã tiến hành giải ngân toàn bộ số tiền vay 115.000.000 đồng cho ông Nguyễn L.Đ.K.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay, ông Nguyễn L.Đ.K đã thanh toán cho Ngân hàng TMCP M đến ngày 26/11/2018 với tổng số tiền gốc và lãi là: 74.335.815 đồng; trong đó: số tiền gốc là 42.166.674 đồng, tiền lãi trong hạn là 31.493.036 đồng và tiền lãi quá hạn là 676.105 đồng. Sau đó, ông K không tiếp tục trả nợ gốc và lãi theo đúng kỳ hạn như thỏa thuận nên Ngân hàng TMCP M đã chuyển sang nợ quá hạn, đồng thời nhiều lần có văn bản nhắc nhở và yêu cầu trả nợ nhưng ông K vẫn không trả. Do đó, Ngân hàng TMCP M khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải trả cho Ngân hàng TMCP M tổng cộng số tiền nợ còn thiếu tính đến ngày 23/6/2021 là: 119.294.101 đồng (trong đó: nợ gốc: 72.833.326 đồng, nợ lãi trong hạn: 37.714.864 đồng, nợ lãi quá hạn: 8.745.911 đồng) và số tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc còn lại theo mức lãi suất nợ quá hạn trong Hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ đã ký kết giữa Ngân hàng TMCP M và ông Nguyễn L.Đ.K tính từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (tức là tính từ ngày 24/6/2021) cho đến khi trả hết nợ vay.

Kèm theo yêu cầu khởi kiện, người khởi kiện đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần của Ngân hàng TMCP M; Bản chính Giấy ủy quyền số 3897/2020/UQ-TGĐ12 ngày 20/7/2020 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP M; Bản chính Giấy ủy quyền số 6359/2020/GUQ-TGĐ12 ngày 22/10/2020 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quản lý tín dụng - Ngân hàng TMCP M; Bản sao Hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV ngày 22/8/2016; Bản sao Khế ước nhận nợ số 101/2016/CVCN ngày 22/8/2016; Bản sao Chứng minh nhân dân Nguyễn L.Đ.K; Bản sao Sổ hộ khẩu chủ hộ Nguyễn L.Đ.K.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng ông Nguyễn L.Đ.K và bà Lê T.D.H đều không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không thể lấy lời khai của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên cũng như không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ đầy đủ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù Tòa án đã triệu tập, niêm yết hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đều chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng, không có vi phạm gì cần phải kiến nghị khắc phục.

Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại các Điều 70 và 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông Nguyễn L.Đ.K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên là bà Lê T.D.H đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.

- Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông Nguyễn L.Đ.K và bà Lê T.D.H đã được Tòa án triệu tập, tống đạt niêm yết hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo thủ tục chung.

- Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 23/6/2021 là 119.294.101 đồng và số tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc còn lại theo mức lãi suất quá hạn hai bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết nợ vay là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn là ông Nguyễn L.Đ.K phải chịu theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của các đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngân hàng TMCP M khởi kiện tranh chấp hợp đồng cho vay đối với bị đơn là ông Nguyễn L.Đ.K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê T.D.H đều có địa chỉ: Đường T, phường L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là ông Nguyễn L.Đ.K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê T.D.H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo thủ tục chung.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Nguyễn L.Đ.K và bà Lê T.D.H không đến làm việc, không cung cấp tài liệu, chứng cứ là tự chối bỏ việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các giấy tờ tài liệu thu thập được để giải quyết vụ án.

[2] Về quyền khởi kiện của người khởi kiện và tính hợp pháp của hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV ngày 22/8/2016:

Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần, mã số:

0200124891, đăng ký lần đầu ngày 01/7/2005, đăng ký thay đổi lần thứ 23 ngày 01/4/2020 do Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp thì Ngân hàng TMCP M được thành lập và tổ chức hoạt động tín dụng dưới hình thức Công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV và Khế ước nhận nợ số 101/2016/CVCN ký kết cùng ngày 22/8/2016 giữa Ngân hàng TMCP M và ông Nguyễn L.Đ.K được ký kết trên cơ sở tự nguyện giữa các bên, các điều khoản ký kết trong hợp đồng này đều không trái pháp luật và đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại các Điều 385, 398, 401, 463 và 468 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV và Khế ước nhận nợ số 101/2016/CVCN ngày 22/8/2016 là hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia ký kết. Hiện tại, ông Nguyễn L.Đ.K còn thiếu nợ nhưng không trả đúng hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng nên Ngân hàng TMCP M khởi kiện là có cơ sở.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:

Sau khi ký kết hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV và Khế ước nhận nợ số 101/2016/CVCN ngày 22/8/2016, Ngân hàng TMCP M đã tiến hành giải ngân cho ông Nguyễn L.Đ.K số tiền cho vay 115.000.000 đồng là đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Theo thỏa thuận trong hợp đồng và Khế ước nhận nợ, ông Nguyễn L.Đ.K phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi trong 60 kỳ trong thời hạn 60 tháng, phương thức trả là trả đều hàng tháng, số tiền gốc phải trả mỗi kỳ là 1.916.667 đồng và số tiền lãi được tính trên dư nợ gốc thực tế giảm dần. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn L.Đ.K chỉ trả cho Ngân hàng TMCP M tính đến ngày 26/11/2018 với tổng số tiền gốc và lãi là: 74.335.815 đồng. Sau đó, ông K không tiếp tục trả nợ gốc và lãi theo đúng kỳ hạn là không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo đúng thỏa thuận nên đã vi phạm hợp đồng. Tính đến ngày 23/6/2021, ông Nguyễn L.Đ.K còn nợ của Ngân hàng TMCP M tổng cộng số tiền gốc và lãi là 119.294.101 đồng (trong đó: nợ gốc: 72.833.326 đồng, nợ lãi trong hạn: 37.714.864 đồng, nợ lãi quá hạn: 8.745.911 đồng). Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP M về việc buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải trả tổng cộng số tiền nợ gốc và lãi nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; các Điều 280, 282 và 466 của Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử xét cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về yêu cầu của Ngân hàng TMCP M về việc buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải tiếp tục trả số tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc còn lại theo mức lãi suất nợ quá hạn trong Hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ đã ký kết ngày 22/8/2016 giữa Ngân hàng TMCP M và ông Nguyễn L.Đ.K tính từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết nợ vay, thấy rằng: Yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng cho vay số 101/2016/HĐCV và Khế ước nhận nợ kèm theo mà hai bên đã ký kết ngày 22/8/2016, phù hợp với quy định tại Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên cần chấp nhận.

[4] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê T.D.H: Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/11/2020, người khởi kiện có đưa bà Lê T.D.H vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, theo yêu cầu trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn là Ngân hàng TMCP M không yêu cầu Tòa án buộc bà Lê T.D.H phải trả nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét nghĩa vụ liên đới của bà Lê T.D.H đối với khoản nợ của ông Nguyễn L.Đ.K. Do đó, Hội đồng xét xử buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải có nghĩa vụ trả toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng TMCP M là phù hợp.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn L.Đ.K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; các Điều 280, 282, 385, 398, 401, 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP M;

Buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP M số tiền nợ còn thiếu là: 119.294.101 đồng (Một trăm mười chín triệu, hai trăm chín mươi bốn nghìn, một trăm lẻ một đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn L.Đ.K còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc còn lại theo mức lãi suất nợ quá hạn trong Hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ đã ký kết ngày 22/8/2016 giữa Ngân hàng TMCP M và ông Nguyễn L.Đ.K cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Trường hợp trong Hợp đồng cho vay và Khế ước nhận nợ, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng TMCP M thì lãi suất mà ông Nguyễn L.Đ.K phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP M theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng TMCP M.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn L.Đ.K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 119.294.101 đồng x 5% = 5.964.705 đồng.

Ngân hàng TMCP M không phải chịu án phí nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí 2.681.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002185 ngày 15/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/DS-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:20/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về