Bản án 20/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

 BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

 Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bạc Liêu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST – HS ngày 14 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Minh T, sinh năm 1959, tại huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Nơi cư trú: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Văn T1, sinh năm 1920 và bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1927; có vợ tên Nguyễn Thị V, sinh năm 1970 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2006; anh, chị, em ruột có 10 người; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/09/2019 đến ngày 21/01/2020. Bị cáo tại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 04 giờ 45 phút ngày 24/9/2019 tại ấp V, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Bạc Liêu kiểm tra xe mô tô biển số kiểm soát 94E1-XXX, do bị cáo Trương Minh T điều khiển có vận chuyển 440 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero nên lập biên bản vi phạm. Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Bạc Liêu kết hợp cùng Công an huyện P tiến hành khám nơi ở của bị cáo Trương Minh T tại ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu và thu giữ 10.860 bao thuốc lá điếu nhập lậu (Trong đó, thuốc lá nhãn hiệu Hero là 6.600 bao, hiệu Jet là 3.570 bao, hiệu Scott là 690 bao); 03 tờ giấy có ghi nhiều chữ số; 02 quyển tập có nhiều chữ số; 02 cây viết mực; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có gắn thẻ sim đã qua sử dụng.

Trong quá trình điều tra chứng minh được: Vào khoảng đầu tháng 08/2019, người tên Đ (không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể) chủ động liên lạc bằng điện thoại với bị cáo Trương Minh T (bị cáo T không biết lý do Đ có số điện thoại của bị cáo T), trao đổi qua lại Đ hỏi bị cáo T có mua thuốc lá điếu hiệu Hero, Scott, Jet bán không, bị cáo T đồng ý và thỏa thuận với Đ là khoảng 08 ngày giao một lần, địa điểm giao nhận là đoạn đất trống thuộc ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, với giá 15.000 đồng/01 bao hiệu Hero, 16.400 đồng/01 bao hiệu Jet, 13.000 đồng/01 bao hiệu Scott.

Từ đầu tháng 8/2019 đến ngày 24/9/2019, bị cáo T có mua thuốc lá điếu nhập lậu của Đ nhiều lần rồi bán lại cho Võ Văn K, Đoàn Văn V, Võ Văn Q, Trương Minh T, Quách Hữu H và những người khác không biết tên địa chỉ cụ thể để kiếm lời, số thuốc lá điếu nhập lậu còn lại 950 bao thuốc lá (hiệu Scott là 70 bao, hiệu Jet là 880 bao) đang cất giấu trong nhà.

Đến ngày 24/9/2019 như thỏa thuận từ trước, người tên Đ đem đến bán cho bị cáo T 10.350 bao thuốc lá điếu nhập lậu (hiệu Hero là 7.040 bao, hiệu Scott là 620 bao, hiệu Jet là 2.690 bao). Khi mua thuốc lá điếu nhập lậu xong, bị cáo Trương Minh T dùng xuồng máy chở về nhà cất giấu.

Sau đó, bị cáo Trương Minh T dùng xe mô tô biển số kiểm soát 94E1-XXX vận chuyển 440 bao thuốc lá hiệu Hero đi ra Ninh Quới giao cho người tên T2 (không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể, T2 và bị cáo T đã thỏa thuận bằng điện thoại việc mua bán từ trước) tại địa điểm giao gần cây xăng Ninh Quới thuộc ấp V, xã Vĩnh P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Khi đi đến gần cây xăng Ninh Quới cùng địa chỉ thì bị Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Bạc Liêu kiểm tra hành chính phát hiện bị cáo T đang vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu và bị thu giữ.

Tại bản Cáo trạng số: 17/CT-KSĐT ngày 27/5/2020 truy tố bị cáo Trương Minh T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điển b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Bạc Liêu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo T như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trương Minh T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T với mức án từ 08 năm đến 09 năm tu.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho Trương Minh T: 01 xe mô-tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu xanh, trắng, biển kiểm soát 94E1-XXX, đã qua sử dụng; 01 chiếc xuồng bằng cây gỗ, dài 7m, chiều ngang rộng nhất 1m, có 16 cặp công bằng cây gỗ, đã qua sử dụng; 01 máy dầu hiệu VIKYNO DIESEL RV70, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, số Seri 1: 3573260, số Seri 2: 883 65414, có gắn thẻ sim 094900XXX, đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô, tô số 014xxx.

Tịch thu tiêu hủy: Tổng số 11.300 bao thuốc lá điếu nhập lậu (Trong đó 7.040 bao thuốc lá hiệu Hero, 3.570 bao thuốc lá hiệu Jet, 690 bao thuốc lá hiệu Scott), kèm theo hộp giấy đựng bao thuốc lá gồm: 704 hộp giấy hiệu HERO, 357 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Jet1, 69 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Scott do không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Tiền Việt nam đang lưu hành số tiền 7.200.000đ (bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

Đối với 02 quyển tập có nhiều chữ số; 01 giấy lịch trên giấy có ghi nhiều con số; 02 tờ giấy có ghi nhiều con số; 02 cây viết mực đã được tách ra thanh một tin báo mới và xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Minh T không có ý kiến tranh luận .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trương Minh T thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Để có tiền chi xài cá nhân nên vào ngày 24/9/2019 bị cáo Trương Minh T mua thuốc lá điếu nhập lậu về cất giấu trong nhà nhằm mục đích bán lại cho người khác. Qua kiểm tra thu giữ tổng số 11.300 bao thuốc lá điếu nhập lậu (Trong đó: 7.040 bao thuốc lá hiệu Hero, 3.570 bao thuốc lá hiệu Jet, 690 bao thuốc lá hiệu Scott). Hành vi nhập lậu 11.300 bao thuốc lá điếu không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp để chứng minh nguồn gốc xuất xứ thuốc lá của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số: 17/CT-KSĐT ngày 27/5/2020 đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

[3] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo T đã đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sư , bị cáo hoàn toàn nhận thức và biết rõ việc Nhà nước nghiêm cấm hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa phương, nhưng chỉ vì tư lợi cá nhân mà bị cáo bất chấp pháp luật để phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo cũng để phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cho bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 7.200.000đ mà bị cáo cho rằng tiền bị cáo thu lợi từ việc mua bán thuốc lá, theo xác định của bệnh viện hiện tại bị cáo bị bệnh thoát vị đĩa đệm chèn ép thần kinh, gai cột sống, 2 chân bị yếu nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Trả lại cho bị cáo 01 xe mô-tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu xanh, trắng, biển kiểm soát 94E1-XXX, đã qua sử dụng; 01 chiếc xuồng bằng cây gỗ, dài 7m, chiều ngang rộng nhất 1m, có 16 cặp công bằng cây gỗ, đã qua sử dụng; 01 máy dầu hiệu VIKYNO DIESEL RV70, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, số Seri 1: 3573260, số Seri 2: 883 65414, có gắn thẻ sim 0949002XXX, đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô, tô số 014XXX, vì đây là tài sản và giấy chứng nhận tài sản của gia đình bị cáo, các loại tài sản này gia đình bị cáo sử dụng chung cho gia đình.

Tịch thu tiêu hủy: Tổng số 11.300 bao thuốc lá điếu nhập lậu (Trong đó 7.040 bao thuốc lá hiệu Hero, 3.570 bao thuốc lá hiệu Jet, 690 bao thuốc lá hiệu Scott), kèm theo hộp giấy đựng bao thuốc lá gồm: 704 hộp giấy hiệu HERO, 357 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Jet1, 69 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Scott do không còn giá trị sử dụng.

(các loại vật chứng nêu trên đã được giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện P theo biên bản ngày 28/5/2020).

[6]. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Tiền Việt nam đang lưu hành số tiền 7.200.000đ (bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

[7]. Đối với 02 quyển tập có nhiều chữ số; 01 giấy lịch trên giấy có ghi nhiều con số; 02 tờ giấy có ghi nhiều con số; 02 cây viết mực đã được tách ra thanh một tin báo mới và xử lý theo quy định pháp luật.

[8] Đối với những người thân trong gia đình của bị cáo T gồm Nguyễn Thị V, Trương Quốc D, Trương Quốc D biết bị cáo mua bán thuốc lá điếu nhập lậu nhưng không ngăn cản cũng không giúp sức. Căn cứ khoản 2 Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[9] Đối với Võ Văn K, Đoàn Văn V, Võ Minh Q, Trương Minh T, Quách Hữu H có hành vi “Mua thuốc lá điếu nhập lậu về sử dụng”. Căn cứ Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P không đề cập đến xử lý là có căn cứ.

[10] Đối với người do bị cáo khai mua thuốc lá điếu nhập lậu chỉ biết là tên Đ và người bị cáo bán thuốc lá điếu nhập lậu chỉ biết tên T2 mà không biết họ, tên và địa chỉ cụ thể nên không xác minh được, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

[11]. Xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo Trương Minh T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1.Tuyên bố bị cáo Trương Minh T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Minh T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/09/2019 đến ngày 21/01/2020.

3. Về vật chứng: Căn cứ vào điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo:

- 01 xe mô-tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu xanh, trắng, biển kiểm soát 94E1-XXX, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc xuồng bằng cây gỗ, dài 7m, chiều ngang rộng nhất 1m, có 16 cặp công bằng cây gỗ, đã qua sử dụng;

- 01 máy dầu hiệu VIKYNO DIESEL RV70, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, số Seri 1: 3573260, số Seri 2: 88365414, có gắn thẻ sim 0949002353, đã qua sử dụng;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô, tô số 014XXX.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 11.300 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 7.040 bao thuốc lá hiệu Hero, 3.570 bao thuốc lá hiệu Jet, 690 bao thuốc lá hiệu Scott);

+ 1.130 hộp giấy đựng thuốc lá (trong đó 704 hộp giấy hiệu HERO, 357 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Jet1, 69 hộp giấy đựng bao thuốc lá hiệu Scott ).

(các loại vật chứng nêu trên đã được giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện P theo biên bản ngày 28/5/2020).

[4]. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Tiền Việt nam đang lưu hành số tiền 7.200.000đ (bảy triệu hai trăm nghìn đồng), hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự huyện P đang quản lý theo biên lai thu tiền số 004852 ngày 28/5/2020 và biên lai thu tiền số 005853 ngày 30/6/2020.

5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trương Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong han 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 20/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về