Bản án 20/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh ĐN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST-HS, ngày 04/5/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXXST-HS ngày 14/5/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân Th; sinh năm 1998; Tên gọi khác: không; nơi sinh: tỉnh ĐN; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn ĐA, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh ĐN; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: làm nông; con ông Nguyễn Xuân T - sinh năm 1970 và con bà Nguyễn Thị S - sinh năm 1978; cùng trú tại thôn ĐA, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh ĐN; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày khởi tố bị can; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1978; Địa chỉ: Thôn ĐA, xã ĐL, huyện ĐM, tỉnh ĐN.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Thế T; sinh năm 1968; Địa chỉ: Tổ dân phố 05, thị trấn ĐM, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh ĐN truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào ngày 25/12/2019, Nguyễn Xuân Th sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng (Nguyễn Xuân Th mượn điện thoại của mẹ là chị Nguyễn Thị S) truy cập vào trang mạng xã hội Facebook. Thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Xuân Th liên lạc với một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng tài khoản trên Facebook có tên “Pháo Banh” để mua pháo với số tiền là 3.500.000đồng. Đến khoảng 17h00’ cùng ngày, một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà của Nguyễn Xuân Th tại thôn ĐA, xã ĐL, huyện Đ giao cho Nguyễn Xuân Th 10,9kg pháo gồm: 03 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16cm x 16cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 02 khối hình chữ nhật (kích thước 14cm x 14cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 07 túi ni lông trong suốt bên trong có chứa các vật hình cầu (dạng quả bóng đá) vỏ nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có sợi dây màu xanh.

Sau đó, cũng thông qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Xuân Th liên lạc và đồng ý bán số pháo đã mua được cho một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng tài khoản trên Facebook mang tên “Hoàng Dũng” với số tiền 5.000.000 đồng. Đến khoảng 13h30’ ngày 31/12/2019, Nguyễn Xuân Th gọi xe taxi thuê anh Nguyễn Thế T (sinh năm 1968, trú tại TDP 5, thị trấn ĐM, huyện Đ) chở Th đến địa điểm đã hẹn thuộc khu vực nghĩa trang giáo xứ B thuộc thôn ĐH, xã ĐM, huyện Đ để bán pháo cho đối tượng sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook mang tên “Hoàng Dũng”. Khi Nguyễn Xuân Th đang giao số pháo nổ cho đối tượng trên thì bị lực lượng công an xã ĐM phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật, còn đối tượng mua pháo thì bỏ trốn.

Tại kết luận giám định số 742/C09B ngày 03/01/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố H kết luận:

- 03 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16cm x 16cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 4,9kg - 02 khối hình chữ nhật, kích thước (14cm x 14cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 2,8kg.

- 07 túi ni lông trong suốt bên trong có chứa các vật hình cầu (dạng quả bóng đá) vỏ nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có sợi dây màu xanh gửi giám định đều là pháo nổ. Khi đốt phát ra tiếng nổ lớn, tổng khối lượng là 3,2kg.

Tại bản cáo trạng số: 19/CTr-VKS, ngày 29/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh ĐN đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Th về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi pham tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh ĐN giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Th phạm tội “Buôn bán hàng cấm” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Đề nghị :

Cần chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đã thu giữ và tiêu huỷ theo quy định: 03 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16cm x 16cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 02 khối hình chữ nhật, kích thước (14cm x 14cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 07 túi ni lông trong suốt bên trong có chứa các vật hình cầu (dạng quả bóng đá) vỏ nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có sợi dây màu xanh (hoàn lại sau giám định).

Cần chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng model A1453, số IMEI là 352001060413608 cho chị Nguyễn Thị S là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bao đựng bằng cước nhựa màu xanh ghi nhãn Urê do không còn giá trị sử dụng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân Th đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với người liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu thu thập có lưu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.

Hội đồng xét xử xét thấy: Vào ngày 25/12/2019, Nguyễn Xuân Th đã có hành vi mua trái phép 10,9kg pháo nổ của một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 3.500.000 đồng. Đến 14h15’ ngày 31/12/2019, tại thôn ĐH, xã ĐM, huyện Đ, tỉnh ĐN, Nguyễn Xuân Th đã bán 10,9kg pháo nổ là hàng cấm cho một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với mục đích kiếm lời thì bị công an xã ĐM, huyện Đ phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi này của bị cáo Nguyễn Xuân Th đã cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Do đó, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân Th đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Điều 190 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) ..., buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

...”

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước. Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết được hành vi buôn bán 10,9 kg pháo nổ nhằm mục đích bán kiếm lời là loại hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán là vi phạm pháp luật. Nhưng với ý thức coi thường pháp luật, muốn kiếm tiền để tiêu xài bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý của cơ quan chức năng để thực hiện hành vi mua bán pháo nổ. Do đó, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình gây ra, bị cáo có ông nội là người có công với nước được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo phạm tội lần đầu. Hội đồng xét xử xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần định ra cho bị cáo một thời gian cải tạo dưới sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú; như vậy cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng:

Việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đã thu giữ và tiêu huỷ 03 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16cm x 16cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 02 khối hình chữ nhật, kích thước (14cm x 14cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm;

07 túi ni lông trong suốt bên trong có chứa các vật hình cầu (dạng quả bóng đá) vỏ nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có sợi dây màu xanh là có căn cứ, phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng model A1453, số IMEI là 352001060413608 do chị Nguyễn Thị S không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại là phù hợp.

- Đối với 01 bao đựng bằng cước nhựa màu xanh ghi nhãn Urê do không còn giá trị sử dụng nền cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp.

[7] Trong vụ án còn có một số vấn đề sau:

Đối với anh Nguyễn Thế T là người chở Nguyễn Xuân Th đi đến thôn ĐH, xã ĐM nhưng do không biết Th đi bán pháo nổ nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với chị Nguyễn Thị S cho Nguyễn Xuân Th mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 để sử dụng vào việc mua bán pháo nổ. Quá trình điều tra xác định, chị Nguyễn Thị S không biết việc Th sử dụng điện thoại để mua bán pháo nổ nên không có căn cứ xử lý.

Đối với đối tượng dùng tài khoản mạng xã hội Facebook “Pháo Banh” là người bán pháo cho Nguyễn Xuân Th và đối tượng dùng tài khoản mạng xã hội Facebook “Hoàng Dũng” là người mua pháo của Nguyễn Xuân Th. Quá trình điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đang tiếp tục xác minh, làm rõ khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Th phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân Th 01 (một) năm, 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã ĐL, huyện Đ, tỉnh ĐN giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự hai lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

2. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: - Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đã thu giữ và tiêu huỷ 03 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16cm x 16cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 02 khối hình chữ nhật, kích thước (14cm x 14cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm; 07 túi ni lông trong suốt bên trong có chứa các vật hình cầu (dạng quả bóng đá) vỏ nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có sợi dây màu xanh.

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu vàng model A1453, số IMEI 352001060413608 cho chị Nguyễn Thị S là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bao đựng bằng cước nhựa màu xanh ghi nhãn Urê do không còn giá trị sử dụng.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về