Bản án 20/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2020/HSST, ngày 03 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Đình T, sinh năm 1967; Nơi sinh: Huyện QP, tỉnh Thái Bình; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn BĐ I, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Đình C và bà Đào Thị S; Có vợ là Lưu Thị T, có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/4/2020 đến ngày 10/4/2020 thì được hủy bỏ Quyết định tạm giữ và áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa: Ông Lý Văn T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn tham gia bào chữa cho bị cáo Ngô Đình T (có mặt).

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lưu Thị T, sinh năm 1972; Địa chỉ:

Tn BĐ I, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 01/4/2020, tại khu vực thôn BĐ I, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn phát hiện bắt quả tang Ngô Đình T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Tại túi quần bên phải T đang mặc 01 nhỏ được gói bằng túi ni lon màu trắng, bên trong có 01 gói nhỏ chất bột màu trắng được gói bằng loại giấy có dòng kẻ một mặt màu trắng, một mặt màu hồng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu ipphone loại 6s, bên trong có gắn thẻ sim có số thuê bao 0395553772; 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, trong ví có số tiền 1.263.000đ; 02 Giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Ngô Đình T. Tổ công tác tiến hành niêm phong toàn bộ số chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu "T" và đưa T cùng toàn bộ số tang vật về trụ sở Công an huyện CM làm rõ.

Ti cơ quan điều tra Ngô Đình T khai: Gói chất bột màu trắng Công an đã thu giữ trong túi quần T đang mặc là ma túy, do sáng ngày 31/3/2020, T một mình đi xe buýt từ nhà đến bến xe khách Thái Nguyên cũ để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, T mang về nhà và đã sử dụng một phần, số còn lại T cất giấu vào túi quần, đến ngày 01/4/2020 thì bị Công an phát hiện và bắt giữ.

Tn cơ sở đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đã tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở và khu vực phụ cận của Ngô Đình T. Quá trình khám xét không phát hiện và thu giữ tài liệu, đồ vật gì.

Ti biên bản đóng mở niêm phong ngày 01/4/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xác định: Chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu "T" thu giữ của Ngô Đình T có khối lượng là 0,142 gam, sau khi cân, toàn bộ chất bột màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu "T1" để gửi trưng cầu giám định, giấy gói cũ được niêm phong trong phong bì ký hiệu "T2".

Tại kết luận giám định số: 67/KTHS-MT ngày 13/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng có trong phong bì kí hiệu "T1" gửi tới giám định là chất ma tuý, loại Heroine, sau khi giám định, hoàn lại 0,110 gam ma túy cùng phong bì cũ được niêm phong trong phong bì mới ký hiệu T67 là tang vật của vụ án.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và không có ý kiến hay khiếu nại gì về khối lượng ma túy cũng như kết luận giám định.

Ti phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Tại Cáo trạng số 21/CT-VKSCM ngày 01/7/2020 của VKSND huyện CM truy tố Ngô Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS và tại bản luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:

- Ngô Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù, được trừ thời gian đã bị tạm giữ.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Bin pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì kí hiệu "T67" bên trong có chứa 0,110 gam ma túy và phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu "T2" bên trong có giấy gói cũ và vỏ phong bì cũ; Trả lại bị cáo 01 điện thoại kèm theo 01 thẻ sim số thuê bao 0395553772; 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, 02 Giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Ngô Đình T; Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lưu Thị T số tiền 1.263.000đ.

- Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo xuất trình Đơn xin miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2006/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí xem xét miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

* Tại Bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Ngô Đình T, người bào chữa trình bày:

Vic khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tương đối tốt; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bố bị cáo là người có công, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo 01 điện thoại có kèm theo 01 thẻ sim, 01 ví giả da, 02 giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân; gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, đề nghị miễn hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; trả lại cho bà T số tiền 1.263.000đ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tuy nhiên quá trình điều tra, Điều tra viên đã không thực hiện đúng việc bảo quản vật chứng đối với số tiền 1.263.000đ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng Hình sự, cần được xem xét rút kinh nghiệm.

[2] Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận vào ngày 01/4/2020, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,142 gam bị cáo cất giấu trong túi quần với mục đích để sử dụng cho bản thân và đã bị cơ Công an huyện CM phát hiện và bắt giữ.

[3] Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Heroine,… có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam”.

o trạng số 21/CT-VKSCM ngày 01/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý về các chất ma tuý của nhà nước, là mối hiểm họa cho cộng đồng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương và phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

Ngoài hình phạt chính, khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên qua xác minh tại địa phương thì bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, sinh sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức về hành vi của mình, biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, cần có mức án phù hợp để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ bị cáo là người có công, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về vật chứng trong vụ án:

- Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì kí hiệu "T67" bên trong có chứa 0,110 gam ma túy và giấy gói cũ; 01 phong bì ký hiệu "T2" bên trong có giấy gói cũ và vỏ phong bì cũ;

- Đối với 01 điện thoại di động bên trong có gắn thẻ sim có số thuê bao 0395553772; 01 ví giả da màu nâu; 02 Giấy phép lái xe số AT 439299 và số 240170025045 và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 095094843 đều mang tên Ngô Đình T, không liên quan đến hành vi phạm tội, xét thấy cần trả lại cho bị cáo;

- Đối với số tiền 1.263.000đ do gia đình bị cáo bán cây keo mà có, bà Lưu Thị T cho bị cáo giữ để chi tiêu phục vụ sinh hoạt gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội, xét thấy cần trả lại cho bà T là phù hợp.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai mua của người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, vì vậy Cơ quan điều tra chưa xác định được đối tượng để xem xét xử lý trong vụ án này, xét thấy là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo của địa phương và có đơn xin miễn án phí, vì vậy bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Ngô Đình T 15 (Mười lăm) tháng tù, được trừ thời gian bị tạm giữ (từ ngày 01/4/2020 đến ngày 10/4/2020). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì kí hiệu "T67" bên trong có chứa 0,110 gam ma túy cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu "T2" bên trong có giấy gói cũ và vỏ phong bì cũ;

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone loại 6s bên trong có gắn thẻ sim có số thuê bao 0395553772; 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng; 02 Giấy phép lái xe số AT 439299 và số 240170025045; 01 Giấy chứng minh nhân dân số 095094843 đều mang tên Ngô Đình T.

- Trả lại cho bà Lưu Thị T số tiền 1.263.000đ (Một triệu hai trăm sáu mươi ba nghìn đồng).

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/7/2020 giữa Cơ quan Công an huyện CM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2006/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí. Bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về