TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 20/2020/HSST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Trong ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Đỗ Văn T, sinh năm 1956; Nơi cư trú: khu phố M, phường M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: Lơ xe; Con ông Đỗ Văn P, sinh năm 1930 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1932 (đã chết); có vợ Lê Thị L, sinh năm 1958 và hai con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1981; Tiền án, tiền sự: Không.Bị cáo được tại ngoại điều tra nay có mặt tại phiên tòa.
2. Đỗ Hữu T2, sinh năm 1978; Nơi cư trú: khu phố M, phường M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Tài xế; Con ông Đỗ Văn T, sinh năm 1956 và bà Lê Thị L, sinh năm 1958, có vợ Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1973 và có một người con sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại điều tra nay có mặt tại phiên tòa.
3. Đào Thanh T1, sinh năm 1990 (tên gọi khác: Đ); Nơi cư trú: ấp Ô, xã B, thị xã K , tỉnh Long An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Đào Văn H, sinh năm 1970 và bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1969; có vợ Phạm Thị Cẩm V, sinh năm 1991 và một con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại điều tra nay có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B, xã T, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; Bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1969; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Ô, xã B, thị xã K , tỉnh Long An;
- Người làm chứng: Bà Phạm Thị Cẩm V, sinh năm 1991; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Ô, xã B, thị xã K , tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 2 giờ sáng ngày 22/4/2020, Đỗ Văn T, sinh năm: 1956, hộ khẩu thường trú: khu phố M, phường M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang sử dụng số điện thoại 0395752026 liên lạc với Đào Thanh T1 (tên gọi khác: Đ), sinh năm: 1990, hộ khẩu thường trú: ấp Ô, xã B, thị xã K , tỉnh Long An qua số điện thoại 0816262919 để mua 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại với số tiền 21.700.000 đồng. Cả hai thỏa thuận giao nhận hàng tại khu vực ấp G, xã B, thị xã K, tỉnh Long An. Sau đó, T kêu Đỗ Hữu T2, sinh năm: 1978 (là con ruột của T) ở chung nhà với T, điều khiển xe ô tô khách biển số 53N- 6191 đến xã B, thị xã K chở đồ cho T 01 chuyến, T đồng ý. T và T2 đi đến khu vực ấp G, xã B, thị xã K, tỉnh Long An thì T liên lạc với T1 để giao nhận thuốc. T1 điều khiển xe mô tô biển số 62T1-006.56 chở 1.600 bao thuốc lá đến giao cho T cất giấu trên xe, lúc này T ngồi trên xe. Sau khi T cất giấu thuốc xong, T kêu T điều khiển xe đi theo hướng về thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 22/4/2020, khi T và T2 đi đến khu phố B, Phường M, thị xã K thì bị lực lượng tuần tra phòng chống tội phạm Công an thị xã Kiến Tường tiến hành kiểm tra phương tiện phát hiện trên xe có chứa 1.600 bao điếu thuốc lá nhập lậu được cất giấu trên xe. Công an tiến hành lập biên bản tạm giữ tang vật cùng phương tiện. Nguồn gốc số thuốc lá ngoại trên là do Đào Thanh T1 mua của người Campuchia giao tại địa điểm giáp ranh giữa ấp G, xã B, thị xã K với Campuchia, T1 nhận xong đem giao bán lại cho Đỗ Văn T nhưng chưa lấy tiền.
Tang vật tạm giữ: 01 xe ô tô khách nhãn hiệu TRANSINCO, màu ghi biển số 54N-6191; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô; 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 giấy phép lái xe Nguyễn Hữu T; 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 700 bao thuốc lá hiệu JET; 400 bao thuốc lá hiệu HERO; 500 bao thuốc lá hiệu SCOTT); 01 điện thoại đi động hiệu Samsung màu hồng, số sim 0919348756; 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu vàng đồng, số sim 0395752026; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, biển số 62T1- 006.56; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 004370; 01 điện thoại di động hiệu FPT màu vàng, số sim 0816262919.
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSKT ngày 17/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An đã truy tố các bị cáo Đỗ Văn T, Đỗ Hữu T2, Đào Thanh T1 về tội “buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kiến Tường giữ nguyên cáo trạng đã truy tố, đề nghị: Kết luận hành vi của các bị cáo Đỗ Văn T, Đỗ Hữu T2, Đào Thanh T1 phạm tội “buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Về hình phạt đối với bị cáo Đỗ Văn T đề nghị áp dụng các Điểm s, x, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 và các Điều, Điều 38; Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách đối với bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng.
Về hình phạt đối với bị cáo Đỗ Hữu T2 đề nghị áp dụng Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và các Điều, Điều 38; Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu T2 từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách đối với bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng.
Về hình phạt đối với bị cáo Đào Thanh T1 đề nghị áp dụng các Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 và các Điều, Điều 38; Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Đào Thanh T1 từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách đối với bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo T, T2, T1 không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị tịch thu xử lý theo Quyết định số: 20/2018/QĐ-TTg ngày 26/4/2018 của thủ tướng chính phủ: 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 700 bao thuốc lá hiệu JET; 400 bao thuốc lá hiệu HERO; 500 bao thuốc lá hiệu SCOTT). Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu vàng đồng, 01 điện thoại di động hiệu FPT màu vàng. Tịch thu tiêu hủy số sim 0395752026; số sim 0816262919 là vật chứng vụ án.
Đối với người bán thuốc lá ngoại cho T1 là người Campuchia giao bán tại địa điểm giáp ranh giữa Việt Nam và Campuchia nên không thể truy tìm xem xét trong vụ án này.
Các bị cáo nói lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn, hối cải và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án nên có cơ sở xác định: Vào khoảng 02 giờ ngày 22/4/2020, Đỗ Hữu T2 điều khiển xe ô tô biển số 53N-6191 chở Đỗ Văn T đi mua 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu của Đào Thanh T1 tại khu vực ấp G, xã B, thị xã K, tỉnh Long An về để bán lại kiếm lời. Sau đó, T chở T trên đường về lại thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đến khu phố B, Phường M, thị xã K, tỉnh Long An thì lực lượng tuần tra phòng chống tội phạm Công an thị xã Kiến Tường kiểm tra xe và phát hiện 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu được cất giấu trên xe ô tô, gồm: 700 bao thuốc lá hiệu JET; 400 bao thuốc lá hiệu HERO; 500 bao thuốc lá hiệu SCOTT nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
[2] Như vậy, hành vi của các bị cáo T, T2, T1 đã đủ yếu tố cấu thành các tội “buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An đã truy tố các bị cáo về tội danh, điều, khoản nêu trên là có căn cứ.
[3] Trong vụ án này, T1 là người bán thuốc lá cho T nên có vai trò là người thực hành. T là người mua thuốc lá của T1 về bán kiếm lời nên có vai trò là người thực hành. Đối với T là người lái xe chở T đi mua thuốc lá, mặc dù ban đầu T không biết việc T mua thuốc lá của T1 nhưng khi T và T1 giao nhận thuốc lá, T biết việc T giao nhận thuốc lá để lên xe nhưng vẫn đồng ý chở thuốc lá cho T, hành vi của T đồng phạm với T với vai trò giúp sức. Tuy nhiên, giữa T và T2 không có bàn bạc và phân công cụ thể vai trò từng người nên hành vi của T và T2 là đồng phạm giản đơn, không xem xét tính tổ chức.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo được xem xét như sau: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Đỗ Văn T được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Người phạm tội là người có công với cách mạng, là con của liệt sĩ” được quy định tại Điểm s, x Khoản 1, Điều 51 Bộ Luật hình sự; Đối với bị cáo Đỗ Hữu T2 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ Luật hình sự; Ngoài ra, gia đình bị cáo T và T2 có người có công với cách mạng thuộc trường hợp giảm nhẹ được quy định tại Khoản 2, Điều 51 Bộ Luật hình sự; Đối với bị cáo Đào Thanh T1 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ Luật hình sự và bị cáo T1 có cha được Bộ tư lệnh bộ đội biên phòng khen tặng bằng khen là tình tiết giảm nhẹ theo Khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Về nhân thân của các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;
[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là buôn bán thuốc lá ngoại, là mặt hàng mà pháp luật hình sự nghiêm cấm buôn bán, bản thân các bị cáo là người đã trưởng thành, bản thân nhận thức rỏ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn có ý thực hiện. Tuy nhiên, xét về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thì chỉ cần áp dụng một hình phạt tù có điều kiện đó là cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục và mang tính phòng ngừa chung cho xã hội, đồng thời thể hiện sự kHn hồng và nghiêm minh của pháp luật như Viện kiển sát nhân dân thị xã Kiến Tường đã đề nghị là có căn cứ.
[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về vật chứng: Đối với vật chứng cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý nên không xem xét. Đối với 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 700 bao thuốc lá hiệu JET; 400 bao thuốc lá hiệu HERO; 500 bao thuốc lá hiệu SCOTT) là tang vật của vụ án thuộc trường hợp phải tịch thu xử lý theo QĐ số: 20/2018/QĐ-TTg ngày 26/4/2018 của thủ tướng chính phủ; Đối với 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu vàng đồng,; 01 điện thoại di động hiệu FPT màu vàng, các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước; Đối với các sim số 0395752026, 0816262919 các bị cáo dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà H và bà H sau khi nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
[9] Đối với người bán thuốc lá ngoại cho T1 là người Campuchia giao bán tại địa điểm giáp ranh giữa Việt Nam và Campuchia nên không thể truy tìm xem xét trong vụ án này.
[10] Án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Căn cứ theo hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều tuân thủ đúng quy định bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm b Khoản 1, Điều 190 Bộ luật Hình sự:
1. Tuyên bố các bị cáo: Đỗ Văn T, Đỗ Hữu T2, Đào Thanh T1 (tên gọi khác: Đ) phạm tội “buốn bán hàng cấm”;
Căn cứ vào các Điểm s, x, Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bị cáo là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án và giao bị cáo về UBND phường M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trong trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Căn cứ vào Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 và các Điều 17, Điều 38; Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu T2 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bị cáo là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án và giao bị cáo về UBND phường M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trong trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Căn cứ vào Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 và các Điều 17, Điều 38; Điều 50, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đào Thanh T1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách bị cáo là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án và giao bị cáo về UBND xã B, thị xã K, tỉnh Long An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trong trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu xử lý theo QĐ số: 20/2018/QĐ-TTg ngày 26/4/2018 của thủ tướng chính phủ đối với 1.600 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 700 bao thuốc lá hiệu JET; 400 bao thuốc lá hiệu HERO; 500 bao thuốc lá hiệu SCOTT);
Tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu vàng đồng và 01 điện thoại di động hiệu FPT màu vàng; Tịch thu tiêu hủy 01 sim 0395752026 và 01 sim số 0816262919.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Buộc Đỗ Văn T, Đỗ Hữu T2, Đào Thanh T1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm thẩm sung công quỹ nhà nước.
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án là 05 năm theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 20/2020/HSST ngày 09/09/2020 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 20/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về