Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 20/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 110/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 34/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1993. HKTT: Ấp K, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Số A, tổ A, ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Bị đơn: Anh Trần Văn D, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Ấp K, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần hai không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Nguyễn Ngọc T trình bày như sau:

Chị và anh Trần Văn D cưới nhau vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 04/3/2013. Trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cự cải, hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã cố gắng dàn xếp để chung sống cùng nhau lo cho con nhưng không thể tiếp tục chung sống. Vợ chồng đã ly thân gần 06 năm nay.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 người con chung là Trần Hạo N, sinh ngày 16/8/2012 hiện đang sống với anh D tại ấp K, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn anh Trần Văn D vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị T.

Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm có: Đơn khởi kiện ngày 17/3/2020 (Bản gốc); giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 04/3/2013 do Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản chính); trích lục giấy khai khai sinh số 157/TLKS-BS ngày 11/02/2020 do Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản sao); giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản photo); đơn xin xác nhận nơi cư trú ngày 11/02/2020 (Bản gốc); bản tự khai ngày 05/5/2020 (Bản gốc); biên bản ghi nhận ý kiến ngày 20/5/2020 (Bản gốc); biên bản xác minh ngày 20/5/2020 (Bản gốc).

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Chị T đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống khoảng 06 năm nay và vợ chồng chị Nguyễn Ngọc T, anh Trần Văn D đã ly thân từ đó cho đến nay.

Tại phiên tòa:

Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu đối với anh D;

anh D vắng mặt nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Trần Văn D vắng mặt không có lý do đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vụ án theo quy định.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc T; về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị T ly hôn với anh D; về con chung: Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung cho anh T nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Anh D không có yêu cầu nên miễn xét; về tài sản và nợ chung: Không có nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Chị T khởi kiện xin ly hôn với anh D và đồng ý giao con chung cho anh D nuôi dưỡng nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.

[3] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh Trần Văn D theo quy định của pháp luật nhưng anh vẫn vắn mặt không có lý do. Nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất quyết định xét xử theo thủ tục chung.

[4] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Ngọc T đối với anh Trần Văn D. Hội đồng xét xử thấy, hôn nhân giữa anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 04/3/2013 nên xác định hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh D vẫn vắng mặt không lý do, cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện chị T. Qua lời trình bày của chị T cũng như kết quả xác minh từ địa phương cho thấy anh chị cưới nhau năm 2011, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, tỉnh Kiên Giang. Trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cự cải, hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã cố gắn dàn xếp để chung sống cùng nhau lo cho con nhưng không thể tiếp tục chung sống. Vợ chồng đã ly thân gần 06 năm nay.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải tạo đi ều kiện cho v ợ chồn g đoàn tụ nhưng anh D vắng mặt không lý do, không thể hiện thiện ý chí hàn gắn hôn nhân. Hơn nữa, anh chị đã ly thân trong thời gian dài đến nay không ai muốn hàn gắn hôn nhân, do đó có sơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị T cho chị T được ly hôn với anh D.

Về con chung: Chị T xác định có 01 người con chung tên Trần Hạo N, sinh ngày 16/8/2012 hiện đang sống cùng với anh D tại ấp K, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Cháu Trần Hạo N có nguyện vọng sống cùng với cha là anh D sau khi cha mẹ ly hôn.

Xét thấy, trong thời gian vợ chồng ly thân cháu Nam sống cùng với anh D, cháu được cho đi học và đang phát triển bình thường. Do đó, trong thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao các cháu N cho anh D tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo nguyện vọng của cháu N.

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh D không có yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định không có, không yêu cầu giải quyết, anh D không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị T là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[6] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận như nêu ở phần nhận định trên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, Điều 56 và Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc T đối với bị đơn anh Trần Văn D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Ngọc T đối với bị đơn anh Trần Văn D.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Hạo N, sinh ngày 16/8/2012 cho anh Trần Văn D tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo nguyện vọng của cháu N.

3. Về cấp dưỡng: Anh D không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Ngọc T xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Ngọc T có nghĩa vụ nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008551 ngày 05/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, vậy chị T đã nộp đủ tiền án phí.

6. Báo quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc T và bị đơn anh Trần Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:20/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về