Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 20/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 172/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị P, sinh năm 1987;

Địa chỉ cư trú: Xóm T, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đỗ Ngọc L, sinh năm 1985;

Địa chỉ cư trú trước xuất cảnh: Xóm T, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An;

Địa chỉ cư trú hiện tại: Lãnh thổ Đài Loan; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị Kim Liên, sinh năm 1967;

Địa chỉ cư trú: Xóm T, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Lương Thị P trình bày:

Chị và anh Đỗ Ngọc L tìm hiểu nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/3/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung với mẹ chồng và ông bà ngoại của anh L tại xóm T, xã N, huyện T được hơn 6 năm. Đến tháng 12/2014, vợ chồng cùng làm thủ tục đi xuất khẩu lao động sang Đài Loan. Tuy nhiên, tại Đài Loan chị và anh L làm việc ở hai nơi khác nhau nên vợ chồng không sống chung, thiếu quan tâm lẫn nhau nên tình cảm vợ chồng dần mất đi. Từ năm 2016 đến nay chị không liên lạc được với anh L. Sau đó, chị về Việt Nam có liên lạc với anh L nhưng anh L không trả lời, chị cũng đã tìm nhiều cách để liên lạc với anh L nhưng không có kết quả. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Ngọc L.

Về con chung: Chị và anh Đỗ Ngọc L có 02 con chung là Đỗ Thị Ngọc L, sinh ngày 29/01/2009 và Đỗ Thị Ngọc L1, sinh ngày 12/01/2013. Hiện các con chung đang ở với chị và được chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 8 năm 2019, chị và anh L đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên 02 con chung được mẹ chồng là bà Đặng Thị Kim L chăm sóc, nuôi dưỡng, hàng tháng chị và anh L gửi tiền về để bà Liên nuôi các cháu. Nếu vợ chồng ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung đến lúc trưởng thành và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Lương Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện tại, chị Lương Thị P đang ở Việt Nam nhưng do bận công việc nên chị không thể tham gia phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn anh Đỗ Ngọc L, hiện đang ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng qua thân nhân là bà Đặng Thị Kim L (mẹ đẻ của anh L) đến lần thứ hai mà thân nhân của anh L cũng không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh L cho Tòa án biết. Đồng thời cho đến nay, anh L cũng không có văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Kim L, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản hợp lệ nhưng bà Đặng Thị Kim L không có ý kiến trình bày. Ngày 19/2/2020, Tòa án đã tiến hành xác minh thì bà L trình bày: Bà đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và Công văn yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh Đỗ Ngọc L cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Theo bà thì anh L đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan nhưng bà và anh L chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại nên bà không biết địa chỉ của anh L ở Đài Loan để cung cấp cho Tòa án. Bà là người trực tiếp chăm sóc các cháu Đỗ Thị Ngọc L và Đỗ Thị Ngọc L1 trong thời gian anh L và chị P đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Hàng tháng, anh L và chị P đều gửi tiền về cho bà chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu; về công sức chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu thì bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, bà L đề nghị Tòa án không triệu tập bà trong suốt quá trình giải quyết vụ án và xin vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ và xét xử vụ án vắng mặt các đương sự bảo đảm tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật. Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án bà Đặng Thị Kim L là mẹ đẻ của anh L cho biết: Anh Đỗ Ngọc L hiện đang lao động tại lãnh thổ Đài Loan, nhưng bà không biết nơi cư trú cụ thể của anh L ở Đài Loan; thỉnh thoảng anh L có liên lạc điện thoại về cho bà. Việc anh Đỗ Ngọc L vắng mặt được xác định là cố tình giấu địa chỉ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lương Thị P, cho chị P được ly hôn với anh Đỗ Ngọc L. Về con chung: Giao cho chị Lương Thị P được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung là Đỗ Thị Ngọc L sinh ngày 29/01/2009 và Đỗ Thị Ngọc L1, sinh ngày 12/01/2013 đến lúc các con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng và công sức trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con: Chị P và bà Liên không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung: Chị P không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Vụ án ly hôn không có tranh chấp con chung, tài sản chung nhưng Tòa án phải tiến hành thu thập chứng cứ nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Chị Lương Thị P hiện cư trú tại tỉnh Nghệ An, Việt Nam khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Ngọc L hiện cư trú ở nước ngoài; trước xuất cảnh, anh L có địa chỉ cư trú tại tỉnh Nghệ An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại Điều 37, Điều 40, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình.

Về thủ tục hòa giải: Vụ án không tiến hành hòa giải được vì bị đơn anh Đỗ Ngọc L không thể tham gia hòa giải được do vắng mặt tại nơi cư trú và hiện đang ở nước ngoài. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh L vẫn cố tình vắng mặt; về phía nguyên đơn chị Lương Thị P không yêu cầu hòa giải là phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Lương Thị P đang cư trú tại Việt Nam, đã nộp và cung cấp đầy đủ đơn khởi kiện, bản tự khai, các giấy tờ, tài liệu cho Tòa án nhưng do bận công việc không tham gia phiên tòa được nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà Đặng Thị Kim L do không yêu cầu Tòa án giải quyết Về công sức trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đỗ Thị Ngọc L và Đỗ Thị Ngọc L1 trong thời gian anh L, chị P đi lao động ở nước ngoài nên đã đề nghị Tòa án không triệu tập và xin vắng mặt tại phiên tòa. Anh Đỗ Ngọc L hiện đang ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đỗ Ngọc L thông qua người thân là bà Đặng Thị Kim L, mẹ đẻ của anh L, gồm các văn bản: Thông báo thụ lý vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xử, Quyết định hoãn phiên tòa. Đồng thời, yêu cầu anh Đỗ Ngọc L trình bày ý kiến của mình về việc chị P có đơn xin ly hôn. Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của anh L cũng không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh L cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh L biết. Tòa án đã tiến hành xác minh qua thân nhân của anh Đỗ Ngọc L thì được bà Đặng Thị Kim L cung cấp: Anh Đỗ Ngọc L đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan nhưng do bà và anh L chỉ liên lạc qua điện thoại nên bà không biết địa chỉ của anh L ở Đài Loan để cung cấp cho Tòa án. Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã mở phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất vào ngày 30/3/2020 và lần thứ hai vào ngày 28/4/2020, nhưng cả hai lần anh Đỗ Ngọc L đều vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án. Do đó, việc anh Đỗ Ngọc L vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ; từ chối khai báo theo quy định tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị P và anh Đỗ Ngọc L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/3/2008, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn 6 năm. Đến tháng 12/2014, vợ chồng cùng làm thủ tục đi xuất khẩu lao động sang Lãnh thổ Đài Loan và làm việc ở hai nơi khác nhau nên vợ chồng không có điều kiện sống chung, thiếu quan tâm lẫn nhau nên tình cảm vợ chồng dần mất đi. Từ năm 2016 trở đi chị P không liên lạc được với anh L nên đến tháng 8 năm 2019 chị về Việt Nam sinh sống và tiếp tục liên lạc với anh L nhưng không có kết quả. Hiện tại, chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn và mong muốn Tòa án giải quyết cho ly hôn. Xét thấy, hôn nhân giữa chị Lương Thị P và anh Đỗ Ngọc L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Lương Thị P yêu cầu giải quyết ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị Lương Thị P và anh Đỗ Ngọc L có 02 con chung là Đỗ Thị Ngọc L, sinh ngày 29/01/2009 và Đỗ Thị Ngọc L1, sinh ngày 12/01/2013. Nếu ly hôn, chị P có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung đến lúc trưởng thành. Nguyện vọng của chị P phù hợp với nguyện vọng của các con chung và phù hợp với điều kiện thực tế về việc nuôi con; vì hiện nay, anh L đang ở nước ngoài và cố tình dấu địa chỉ. Do đó, căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị P. Giao cho chị P được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lương Thị P không yêu cầu anh Đỗ Ngọc L phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Về công sức trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đỗ Thị Ngọc L và Đỗ Thị Ngọc L1 trong thời gian anh L, chị P đi lao động ở nước ngoài: Bà Đặng Thị Kim L không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[4]. Về tài sản chung: Chị Lương Thị P không yêu cầu giải quyết Vì vậy, Tòa án không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Lương Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 122; Điều 123; Điều 127 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào Điều 37; Điều 40; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 4 Điều 207; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Lương Thị P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị P và anh Đỗ Ngọc L được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cho chị Lương Thị P được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là Đỗ Thị Ngọc L, sinh ngày 29/01/2009 và Đỗ Thị Ngọc L1, sinh ngày 12/01/2013 đến lúc các con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng và công sức trông nom,chăm sóc, nuôi dưỡng con: Chị P và bà Liên không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh Đỗ Ngọc L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Lương Thị P không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lương Thị P phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003115 ngày 06/12/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An. Chị Lương Thị P đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lương Thị P, bà Đặng Thị Kim L có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết. Anh Đỗ Ngọc L có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:20/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về