Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 20/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1988 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, thị trấn T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Trần Thanh Đ, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, thị trấn T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 20/12/2019 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Ngọc H trình bày:

Chị và anh Đ tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 02/3/2009. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã ly thân từ tháng 10 năm 2019 đến nay. Xét thấy không thể tiếp tục chung sống được nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Thanh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 người con chung tên Trần Thành Đ, sinh ngày 23/4/2012, hiện nay cháu Đ1 do chị H nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ1, yêu cầu anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Chị và anh Đ tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định.

Về nội dung: Tại hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa thể hiện chị H và anh Đ chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn là tuân thủ đúng quy định pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H yêu cầu ly hôn với anh Đ. Do đó, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử lý cho chị H và anh Đ được ly hôn. Con chung tên Trần Thành Đ cần tiếp tục giao cho chị H nuôi dưỡng, anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 745.000 đồng/tháng cho đến khi cháu Đ1 đủ 18 tuổi. Tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không xét. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị H chịu 300.000 đồng. Án phí cấp dưỡng anh Đ chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Ngọc H khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Trần Thanh Đ. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; Anh Đ có địa chỉ tại khóm A, thị trấn T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, có tống đạt hợp lệ cho anh Đ nhưng anh Đ không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu của chị H và vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử và có tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng này cho chị H và anh Đ nhưng chị H có đơn xin vắng mặt, anh Đ vắng mặt tại các lần xét xử không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị H, anh Đ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc H và anh Trần Thanh Đ tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 02/3/2009. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa chị H cho rằng thời gian chung sống giữa anh chị xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hôn nhân không hạnh phúc, anh chị đã ly thân từ tháng 10 năm 2019 đến nay nên chị H yêu cầu ly hôn với anh Đ. Điều này phù hợp với biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 15/01/2020. Xét thấy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để chị H và anh Đ có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do anh Đ vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Ngọc H và anh Trần Thanh Đ được ly hôn là phù hợp.

[4] Về con chung: Thời gian chung sống, chị H và anh Đ có 01 người con chung tên Trần Thành Đ, sinh ngày 23/4/2012. Xét thấy, cháu Đ1 hiện tại chị H đang nuôi dưỡng, việc hoán đổi nuôi con sẽ ảnh hưởng đến tình cảm của cháu. Đồng thời cháu Đ1 đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống cùng với chị H. Do đó, cần tiếp tục giao cháu Đ1 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh Đ không trực tiếp nuôi dạy con chung nhưng anh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Đối với việc chị H yêu cầu anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Xét thấy, cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi dạy con chung. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị H, buộc anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu Đ1 mỗi tháng 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Kể từ khi có quyết định và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

[6] Về tài sản chung: Chị H xác định anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về nợ chung: Chị H xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Tại xác nhận ngày 25/12/2019 của Ban nhân dân khóm A, thị trấn T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xác nhận hiện tại không ai khiếu kiện chị H và anh Đ về nợ tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[8] Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Ngọc H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh Trần Thanh Đ phải chịu án phí cấp dưỡngTheo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc H và anh Trần Thanh Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Thành Đ, sinh ngày 23/4/2012 (giới tính nam) cho chị Nguyễn Ngọc H tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Trần Thanh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đ1 mỗi tháng 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu Đ1 đủ 18 tuổi. Anh Đ không trực tiếp nuôi dạy con chung nhưng anh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ khi có quyết định và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Ngọc H phải nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 31 tháng 12 năm 2019 chị H có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0010851 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Thanh Đ phải nộp 300.000 đồng.

4. Trường hợp bản án, quyết định Đ thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Đ vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 22/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:20/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về