Bản án 20/2020/HNGD-PT ngày 10/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 20/2020/HNGD-PT NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tai trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm thụ lý số 12/TLPT-HNGĐ ngày 03/6/2020, về việc "Tranh chấp ly hôn". Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2020/HNGDST ngày 22/04/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐ-PT ngày 13/7/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐ-PT ngày 12/8/2020, giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình H, sinh năm 1964 (có mặt).

ĐKHKTT phòng 204 chung cư B, số 12 phố T, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương;

Hiện ở tại: số 333 đường 391 thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương;

2. Bị đơn: Bà Lý Thị Thu B, sinh năm 1970 (có mặt).

ĐKHKTT: phòng 204 chung cư B, số 12 phố T, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương;

Hiện ở tại: số 7 ngách 48/55 phố M, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương;

3.Ngưi kháng cáo: Ông Nguyễn Đình H – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo nguyên đơn ông Nguyễn Đình H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Lý Thị Thu B kết hôn ngày 10/4/1992, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân ( viết tắt là UBND) phường P, thị xã H ( nay là thành phố H). Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, năm 1996 bà B đã có đơn xin ly hôn nhưng vì không muốn con khổ nên ông không đồng ý, do vậy bà B không nộp đơn nữa. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong việc nuôi dạy con. Ông làm nghề y nên thường hay phải đi trực đêm, tiếp xúc với nhiều người nhưng bà B không tin tưởng, thường xuyên tỏ ra nghi ngờ ông nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Ngoài những bất đồng trước đây, vợ chồng còn nảy sinh thêm mâu thuẫn khác. Bà B không quan tâm đến người thân trong gia đình chồng. Ông đi làm hàng tháng đưa lương cho bà B đầy đủ, nhưng bà B không biết chi tiêu và thu vén gia đình, không biết giữ lửa ấm trong gia đình, thường xuyên quản lý giờ giấc, nghi ngờ tất cả các mối quan hệ của chồng, không tin tưởng nhau, hay nghi kị chồng, hay nói những điều khó nghe với chồng nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm nhau.

Đnh điểm của mâu thuẫn là vào tháng 5/2019, bà B làm đơn tố cáo ông đến cơ quan nơi ông đang công tác, ông nói nhưng bà B không rút đơn, cơ quan đã xác minh và có đơn trả lời bà B. Kể từ tháng 5/2019, ông và bà B đã sống ly thân, ông ở phòng riêng tại Bệnh viện , không ai quan tâm đến ai và không liên lạc với nhau. Bản thân ông thực tế không muốn ly hôn nhưng do tháng 5/2019, bà B có đơn tố cáo ông đến cơ quan nơi ông đang công tác làm ảnh hưởng đến công việc, danh dự nên ông phải làm đơn xin nghỉ hưu trước tuổi. Ông đã trả nhà công vụ và hiện ở tại số 333 đường 391 thị trấn K, huyện T, tỉnh Hải Dương. Ông nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, do vậy đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà B.

Về con chung: Ông và bà B có 01 con chung là Nguyễn Hải M, sinh ngày 08/11/1994, hiện cháu đã trưởng thành nên ông không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông và bà B tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bị đơn bà Lý Thị Thu B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Đình H được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thị xã H vào ngày 10/4/1992. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc và không có mâu thuẫn. Thời điểm năm 1996, bà có làm đơn xin ly hôn ông H, nhưng đó chỉ là sự bồng bột, bất đồng nhỏ. Sau đó, vợ chồng vẫn sống hạnh phúc cho đến nay. Việc bà làm đơn tố cáo ông H đến cơ quan là do ông H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và không quan tâm đến vợ con, mục đích của bà chỉ là mong muốn ông H quan tâm đến gia đình và vợ con nhiều hơn, chứ không phải có mục đích gì khác. Ông H cũng đã yêu cầu bà rút đơn về nên ngày 17/10/2019, sau khi biết ông H đã được cơ quan nhắc nhở, giáo dục, bà đã đề nghị với ông H để bà đến cơ quan rút đơn về, nhưng ông H nói không cần thiết, không quan trọng nữa nên bà không rút đơn tố cáo. Hiện nay vợ chồng bà không có mâu thuẫn, ông H vẫn chung sống và sinh hoạt cùng nhà với bà, nhưng do đặc thù công việc hay phả trực nên ông H ít về nhà mà hay ở tại phòng riêng tại cơ quan. Bà vẫn còn tình cảm với ông H và nhận thấy vợ chồng vẫn còn quan tâm đến nhau. Trong cuộc sống theo ông H bà có những việc làm không đúng bà sẽ sửa chữa để có cuộc sống chung tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn nên bà không nhất trí ly hôn và mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Ông, bà đã trả nhà công vụ, hiện hai mẹ con bà đang ở tại số 7 ngách 48/55 phố M, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Về con chung: Bà và ông H có 01 con chung là Nguyễn Hải M, sinh ngày 08/11/1994, đã trưởng thành nên bà không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận và không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2020/HNGD-ST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97 ngày 25-11-2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình H xin ly hôn bà Lý Thị Thu B.

Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 05/5/2020 ông Nguyễn Đình H kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử cho ông được ly hôn bà B.

Tại phiên tòa ông H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bà B có quan điểm mong ông H về đoàn tụ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương có quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thư ký, Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ông H và bà B đã mâu thuẫn trong thời gian dài. Thực tế ông bà đã sống ly thân từ tháng 5/2019 đến nay. Bà B không muốn ly hôn nhưng không có biện pháp khắc phục tình trạng vợ chồng. Do vậy để nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đình H, sửa bản án sơ thẩm theo hướng xử cho ông H được ly hôn bà B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xác minh thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Đình H kháng cáo trong thời gian luật định, nên kháng cáo hợp lệ.

[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Đình H, Hội đồng xét xử thấy: Ông H kháng cáo cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, từ năm 1996 bà B đã có đơn xin ly hôn ông nên vợ chồng không thể chung sống cùng nhau. Tuy nhiên theo bà B việc trước đây bà viết đơn xin ly hôn ông H đó chỉ là sự bồng bột bất đồng nhỏ, sau đó vợ chồng đã sống hạnh phúc. Việc tháng 5/2019 bà có viết đơn gửi đến cơ quan ông H cũng chỉ với mục đích để ông H rút kinh nghiệm và quan tâm đến gia đình nhiều hơn. Nếu ông H cho rằng bà có những cư xử không đúng với ông thì bà sẽ khắc phục và sửa chữa. Thực tế cho thấy ông H, bà B đã có một thời gian dài chung sống hạnh phúc, cùng nhau nuôi dạy con cái và chia xẻ những khó khăn trong cuộc sống. Theo biên bản xác minh ngày 4/2/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H với ông Phạm Thanh S- Trưởng khu nhà công vụ bệnh viện cũng cho thấy trong thời gian vợ chồng ông H chung sống tại đây cuộc sống vợ chồng không có gì nổi cộm. Theo đơn đề nghị của anh Nguyễn Hải M là con trai của ông H, bà B thể hiện gia đình anh rất yên bình, cả 2 bố mẹ đều là người lo toan và có trách nhiệm với gia đình. Tại phiên tòa bà B xác định vẫn còn tình cảm với ông H và tha thiết xin được đoàn tụ, đồng thời cam kết sẽ khắc phục những thiếu sót nếu ông H cho rằng bà có cư xử không đúng với chồng. Do vậy có thể nói thực tế trong cuộc sống vợ chồng giữa ông H và bà B cũng có mâu thuẫn nhưng chưa đến mức trầm trọng, mâu thuẫn này vợ chồng có thể khắc phục được nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm ông H không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh mâu thuẫn của vợ chồng, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông H.

Sau thời hạn 1 năm nếu hai bên không khắc phục, cải thiện được tình cảm vợ chồng thì ông H tiếp tục có quyền khởi kiện xin ly hôn bà B.

Ông H kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đình H. Giữ nguyên bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 11/2020/HNGD-ST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97 ngày 25-11-2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình H xin ly hôn bà Lý Thị Thu B.

2. Về án phí Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Ông Nguyễn Đình H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình phúc thẩm, nhưng được đối trừ với số tiền 300.000 đồng tạm ứng phí phúc thẩm theo biên lai thu số AA/2018/0001123 ngày 13/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H. Ông H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực thi hành.

Bản án Hôn nhân gia đình phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2020/HNGD-PT ngày 10/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:20/2020/HNGD-PT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về