Bản án 20/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dânhuyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:17/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị K; tên gọi khác: Không; sinh năm 1981; tại xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT: Bản D, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi ở hiện nay: Bản H, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không biết chữ; con ông: Lò Văn H, sinh năm 1957 và con bà: Lò Thị X, sinh năm 1959; bị cáo có chồng là Lường Văn V, đã chết và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền sự:

Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2018 đến ngày 21/12/2018 và bị tạm giam từ ngày 21/12/2018 cho đến nay. Bị cáo đã được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Thị Kim có: Ông Đỗ Xuân T, Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo Kim: Bà Tòng Thị T; địa chỉ: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ, ngày 19/12/2018; Lò Thị K một mình đi từ nhà ở bản H, xã M, huyện T đi xem trâu thả ở khu vực P gần bãi trồng cây cao su thuộc bản H, xã M. Khi đến đường. Khi đến đường lên bãi Cao Su thì K gặp một người dân tộc mông đang đứng ven đường. Qua trao đổi bị cáo K đã mua của người phụ nữ đó 01 gói Heroine với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng), Kim mua ma túy với mục đích để bán lẻ kiếm lời. Khi trao đổi mua bán ma túy, bị cáo không hỏi tên tuổi, địa chỉ của người phụ nữ dân tộc Mông này. Sau khi mua được Heroine K đi về nhà, còn người phụ nữ đó đi đâu làm gì bị cáo không hỏi nên không biết. Khi về nhà K dùng dao lam chia gói Heroine vừa mua được thành 41 gói nhỏ và gói lại bằng các mảnh nilon màu xanh rồi cất giấu 39 gói Heroine vào trong túi vải đeo trên người, còn 02 gói nhỏ Heroine còn lai K cất giấu vào bao tải xác rắn chứa rau lợn để trong nhà. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày khi Kim đang ở nhà thì Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ 39 gói nghi Heroin K đang cất giấu trong túi vải đeo trên người. Sau khi lập biên bản, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp thu giữ thêm 02 gói nghi Heroine của K cất giấu trong bao tải đựng rau lợn. Tổng số thu giữ của bị cáo Kim là 41 gói nhỏ nghi Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ vật chứng. Bị cáo Lò Thị K cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 41 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo Lò Thị K được xác định khối lượng 7,39 gam và trích mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số: 13, ngày 20/12/2018. Tại bản Kết luận giám định số: 165/GĐ-PC09 ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị K gửi giám định là chất ma túy: loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 17/CT-VKS-TG ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Thị K về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa Vị kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Thị K phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; không phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015. Tịch thu 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng mẫu số 1: 1,17 gam chất bột màu trắng Heroine, mẫu số 2: 6,04 gam chất bột màu trắng;tịch thu 01 túi vải màu đen, có một dây đeo đã qua sử dụng để tiêu hủy. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm đ khoản 1Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo Lò Thị K trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội được tặng Huy chương kháng chiến; bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, chồng chết còn lại một mình nuôi ba đứa con chưa đến tuổi thành niên; bị cáo sống ở nơi có điều kiện kinh tế và xã hội đặc biết khó khăn; bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật và xã hội còn hạn chế; với những tình tiết như vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo; đề nghị không phạt bổ sung đối với bị cáo; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo K nhận mình đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi của bị cáo; thì tại phiên tòa Lò Thị K đã thừa nhận: Vào hồi 10 giờ ngày 19/12/2018 bị cáo đã mua 01 gói Heroine với giá 2.000.000đ của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, khi mua bán bị cáo cũng không hỏi địa chỉ, tên tuổi của người này, khi mua không xác định khối lượng, không có ai tham gia cùng. Sau khi mua được Heroine bị cáo đi về nhà và đã bỏ số Heroine dùng dao lam chia thành 41gói nhỏ, gói vào túi nilon màu xanh với mục đích bán mỗi gói Heroine với giá40.000đ một gói. Bị cáo đã cất giấu 39 gói Heroine trong túi vải đeo trên người và 02 gói Heroine cất giấu trong bao tải đựng rau lợn. Bị cáo chưa kịp bán cho ai, thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ. Quá trình mở niêm phong xác định khối lượng 7,39 gam

Heroine thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ được xác định là hoàn toàn chính xác. Sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng. Do đó,có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Thị Kim đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, đồng thời hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm cho tình hình phạm tội về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp và cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi tàng trữ 7,39 gam Heroine với mục đích bán lẻ kiếm lời của bị cáo được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:…

i. Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;…”

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Thị K sinh ra và lớn lên tại xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Bị cáo không được đi học mà chỉ ở nhà sản xuất cùng gia đình. Bị cáo có chồng là Lường Văn V đã chết và có 03 người con. Đến ngày 19/12/2018 có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán lẻ, ngày 21/12/2018 bị khởi tố về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong hồ sơ gia đình bị cáo có nộp Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì của ông Lò Văn C là ông nội của bị cáo Lò Thị K, tuy nhiên qua đối chiếu quy định của Pháp luật thì đây không phải là căn cứ để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với chứng cứ Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ông Lò Văn C cho bị cáo. Bị cáo là người phụ nữ trong gia đình, hơn hết là người mẹ đáng lẽ ra bị cáo phải là tấm gương, chịu thương chịu khó, bằng sức lao động của mình để có thu nhập lương thiện nuôi dạy con cái. Chỉ vì suy nghĩ nông cạn, ham lợi nhuận nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Theo khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định; bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Lò Thị K từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là chưa phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo bởi: Nếu hành vi của bị cáo không được phát hiện kịp thời thì hậu quả diễn ra khôn lường; hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho hoạt động tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp. Trong thời gian qua Nhà nước đã có nhiều chương trình tuyên truyền về tác hại ma túy, Tòa án nhân dân đã có nhiều lần tổ chức xét xử lưu động nhằm tuyên truyền về các tội phạm ma túy; trong khi toàn xã hội đang ra sức phòng chống ma túy thìbản thân bị cáo đã biết và nhận thức được hành vi của mình thực hiện là sai, trái với quy định của Pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Qua đây thấy được thái độ coi thường pháp luật của bị cáo; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Tại phiên tòa, Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ ông nội bị cáo là Lò Văn C được tặng Huy chương kháng chiến; tuy nhiên qua đối chiếu với quy định của pháp luật thì thấy là không phù hợp nên không chấp nhận áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Về đề nghị tuyên mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng, đối với hành vi của bị cáo, cần có mức hình phạt thật nghiêm khắc, thể hiện sự nghiêm minh của Pháp luật và cũng mang lại tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong tình hình tội phạm ma túy đang diễn biến hết sức phức tạp và là tác nhân gây ra nhiều hành vi phạm tội khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

 [8] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo, do khi trao đổi mua bán không hỏi địa chỉ, tên tuổi ở đâu nên không có cơ sở để xử lý nên HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 1, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng như sau: Tịch thu 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng mẫu số 1: 1,17 gam chất bột màu trắng Heroine, mẫu số 2: 6,04 gam chất bột màu trắng; do đây là vật cấm lưu hành và tịch thu 01 túi vải màu đen, có một dây đeo đã qua sử dụng để tiêu hủy do không còn giá trị sử dụng.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Trong quá trình tiến hành tố tụng thấy rằng: Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại đối với các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Thị K phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị K 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/12/2018.

3. Vật chứng: Tịch thu 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng mẫu số 1: 1,17 gam chất bột màu trắng Heroine, mẫu số 2: 6,04 gam chất bột màu trắng và 01 túi vải màu đen, có một dây đeo đã qua sử dụng để tiêu hủy. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho vật chứng số PNKVC38 ngày 06/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lò Thị K được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Thị K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 09/04/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về