Bản án 20/2019/HS-ST ngày 02/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 02/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2019/TLST-HS, ngày 16 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Thân Văn T, sinh ngày 01 tháng 02 năm 1982 tại huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thân Văn H, sinh năm 1962 và bà Vi Thị T, sinh năm 1961; vợ Vi Thị T, sinh năm 1981 và 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự không có; nhân thân xấu: Tại Bản án số 27/2003/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2003 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 tháng tù về tội cướp giật tài sản và 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt chung là 21 tháng, đã chấp hành xong, được xóa án tích. Tại Bản án số 73/2010/HSST ngày 16 tháng 12 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 76/2011/HSST ngày 09 tháng 12 năm 2011 của Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam, tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 73/2010/HSST ngày 16 tháng 12 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là 04 tháng 09 ngày, buộc Thân Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 31 tháng 09 ngày, chấp hành xong ngày 18 tháng 7 năm 2014, được xóa án tích. Ngày 07 tháng 3 năm 2019 có hành vi trộm cắp tài sản tại huyện L, tỉnh Bắc Giang, ngày 08 tháng 4 năm 2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang quyết định khởi tố vụ án số 40,khởi tố bị can số 62 về tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015; bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 27 tháng 3 năm 2019 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nông Thị T, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Thôn R, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt.

Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 27 tháng 3 năm 2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô chở Thân Văn T từ nhà của Nguyễn Văn T ở xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang qua xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang để sang xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn chơi. Khi đi qua khu vực đèo C thuộc địa phận xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn khoảng 02 km thì xe mô tô của Nguyễn Văn T bị hỏng, Nguyễn Văn T bảo Thân Văn T ngồi đợi để Nguyễn Văn T mang xe đi sửa rồi quay lại đón. Thân Văn T đợi Nguyễn Văn T khoảng 01 tiếng đồng hồ nhưng vẫn không thấy Nguyễn Văn T quay lại nên Thân Văn T tự đi bộ quay về theo đường ngược lại. Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi bộ được khoảng 01 km đến thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Thân Văn T phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17 màu sơn đen - bạc, chìa khóa điện vẫn cắm ở ổ khóa, dựng cạnh đường bên trái hướng xã H - xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Thân Văn T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe để lấy làm phương tiện đi về nhà. Quan sát xung quanh không thấy ai, Thân Văn T ngồi lên xe, khởi động và điều khiển xe đi, cùng lúc đó, chủ sở hữu xe là Nông Thị T, sinh năm 1976, trú tại thôn H, xã H phát hiện và truy hô người dân xung quanh đuổi theo Thân Văn T đến thôn H, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang thì bắt được và đưa về Uỷ ban nhân dân xã K lập biên bản. Quá trình bỏ chạy, Thân Văn T bị ngã hai lần và bị thương ở chân phải.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17, màu sơn đen - bạc, số khung 1214DY206189, số máy HC12E5205374, xe không có gương chiếu hậu, yếm bên trái bị vỡ, đèn hậu bị vỡ, phần sách phía đuôi xe bị cong biến dạng, chân nhẵm bên phải, chân phanh cong biến dạng từ trước về sau, xe đã cũ, xước sơn nhiều chỗ, cần số bị cong biến dạng. Quá trình điều tra đã làm rõ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17, màu sơn đen - bạc, số khung 1214DY206189, số máy HC12E5205374 là xe do Thân Văn T trộm cắp của chị Nông Thị T. Ngày 12 tháng 4 năm 2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho chị Nông Thị T.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nông Thị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Thân Văn T phải bồi thường về dân sự.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hữu Lũng kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17, màu sơn đen - bạc có trị giá 7.000.000 đồng.

Tại Quyết định truy tố số: 22/QĐ-VKSHL-HS ngày 16 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Thân Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Thân Văn T giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra về hành vi trộm cắp tài sản và khẳng định bị cáo bị truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh, tuyên bố bị cáo Thân Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt, căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các Điều 38, 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Thân Văn T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vì bị cáo không có tài sản riêng.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị xem xét. Về vật chứng: Không đề nghị xem xét.

Phần tranh luận: Bị cáo Thân Văn T không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo Thân Văn T xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa bị hại chị Nông Thị T vắng mặt có lí do. Người làm chứng gồm các anh Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T1 vắng mặt không có lí do, nhưng trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt của chị Nông Thị T, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn T1 không ảnh hưởng đến phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Bị cáo Thân Văn T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27 tháng 3 năm 2019, Thân Văn T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17 màu sơn đen - bạc của chị Nông Thị T, sinh năm 1976, nơi cư trú tại thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn có trị giá 7.000.000 đồng. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Thân Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Quyết định truy tố số: 22/QĐ-VKSHL-HS ngày 16 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Thân Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Thân Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là thanh niên còn trẻ, có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vì lười lao động, không muốn kiếm tiền một cách chính đáng và coi thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo cũng đã 03 lần bị xét xử về các tội cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản, trốn khỏi nơi giam nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện.

[5] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Thân Văn T có nhân thân xấu.

[7] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[8] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Thân Văn T đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những phân tích trên, xét thấy cần phải cách ly bị cáo Thân Văn T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, nhằm răn đe, giáo dục cho chính bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Thân Văn T không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Đối với Nguyễn Văn T, sinh năm 1976, trú tại thôn R, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, quá trình điều tra, truy tố xác định Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của Thân Văn T nên không đề cập xử lý.

[12] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nông Thị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Thân Văn T phải bồi thường về dân sự nên không đề cập xem xét.

[13] Về vật chứng: Xác nhận ngày 12 tháng 4 năm 2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave biển kiểm soát 12H1-118.17 màu sơn đen - bạc cho bị hại chị Nông Thị T.

[14] Về án phí: Bị cáo Thân Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các Điều 38, 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thân Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Thân Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 3 năm 2019.

3. Về án phí: Bị cáo Thân Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HS-ST ngày 02/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về