Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải - tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 66/2019/TLST-HNGĐ ngày 20/3/2019 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐHNGĐ-ST ngày 18/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim C- sinh năm: 1983 (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Lê Vũ Nhật D - sinh năm: 1982 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn G, xã TH, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị Kim C trình bày: Bà và ông D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 80 ngày 29/11/2001 tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Ninh Hải. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Vì các con nên bà chịu đựng cho đến ngày hôm nay. Ông D có bản tính trăng hoa, vũ phu, thường xuyên cặp kè với nhiều người phụ nữ khác. Ông D không hài lòng chuyện gì ở ngoài xã hội, lại hay về nhà gây gỗ với vợ con, thậm chí còn đánh đập và xúc phạm đến gia đình bà. Nhiều lần ông D hứa thay đổi tính tình nhưng vẫn chứng nào tật đó nên dù ông D có níu kéo, xin bà tha thứ thì bà vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.

Về con chung: Vợ chồng có hai người con chung là cháu Lê Vũ Nhật K, sinh ngày 10/7/2010 và cháu Lê Vũ Nhật H, sinh ngày 26/10/2013, hiện nay hai cháu đang ở cùng vợ chồng bà. Bà muốn chăm sóc hai con chung, không cần ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Bà đang làm chủ huê và cho tiền vay nên thu nhập của bà hơn 70.000.000 đ (Bảy mươi triệu đồng)/ tháng Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 01/4/2019, ông Lê Vũ Nhật D trình bày như sau: Ông và bà C tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Vợ chồng có hai người con chung là cháu Lê Vũ Nhật K sinh năm 2010 và Lê Vũ Nhật H, sinh năm 2013. Quá trình sống chung, vì hoàn cảnh đưa đẩy nên cách đây bảy năm về trước ông quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Do không tìm được tiếng nói chung trong công việc và ghen tuông nên ông không làm chủ được bản thân mà đánh bà C vài bạt tai. Vì còn yêu thương vợ, con rất nhiều nên mong tòa án cho vợ chồng ông đoàn tụ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Lê Vũ Nhật D vắng mặt không có lý do tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18/6/2016 và phiên tòa sơ thẩm ngày 28/6/2019 dù đã được tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định pháp luật.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị Kim C và ông Lê Vũ Nhật D được kết hợp trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình sống chung, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, ông D cũng thừa nhận nhiều lần đánh đập bà C.

Ngoài ra theo lời trình bày của cháu Lê Vũ Nhật K cho thấy mâu thuẫn giữa hai bên là có thật. Tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần vào ngày 01/4/2019 và ngày 30/5/2019 nhưng bà C vẫn cương quyết xin ly hôn. Mặc dù, ông D không chấp nhận ly hôn với bà C nhưng ông vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18/6/2019 và phiên tòa hôm nay, cho thấy ông D ti2m không cố gắng níu kéo tình cảm vợ chồng.

[3] Xét thấy, hôn nhân của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

[4] Về con chung: Xét thấy, thu nhập của bà C ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc cho hai con chung là Lê Vũ Nhật H và Lê Vũ Nhật K nên giao hai cháu cho bà C chăm sóc nuôi dưỡng, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân luôn tuân theo pháp luật tố tụng; Nguyên đơn luôn chấp hành pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng Tòa án đã thực hiện tống đạt thủ tục tố tụng theo quy định và xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật. Về nội dung vụ án: Tình trạng hôn nhân của hai bên đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung: Giao hai con chung cho bà C chăm sóc và nuôi dưỡng, ông D không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Căn cứ vào những phân tích trên, xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 điều 56, điều 58; điều 81, điều 82, điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

2.Về hôn nhân: Bà Trần Thị Kim C được ly hôn với ông Lê Vũ Nhật D

3.Về con chung: Bà Trần Thị Kim C có quyền và nghĩa vụ chăm sóc hai con chung là cháu Lê Vũ Nhật H sinh ngày 26/10/2013 và cháu Lê Vũ Nhật K sinh ngày 10/7/2010. Ông Lê Vũ Nhật D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

4.Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

5.Về án phí: Bà Trần Thị Kim C phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0015987 ngày 15/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Hải. Bà Trần Thị Kim C đã nộp đủ án phí.

Án xử sơ thẩm có mặt nguyên đơn quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; vắng mặt bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về