Bản án 20/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA THÀNH TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 20/2018/HSST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q; sinh năm: 1992, tại Tây Ninh; nơi cư trú: A, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Số CMND: 072092002240; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1967; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 08/8/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không có; bị tạm giữ ngày 18/4/2018, chuyển sang tạm giam từ ngày 21/4/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Trương Quang V, sinh năm 1963 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 4, Thị Trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 18/4/2018, Nguyễn Văn Q một mình đi quanh khu vực khu phố 1, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Tây Ninh để tìm việc làm, khi đi qua tiệm muối ớt “Mỹ Lan” Q nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh, biển số 70H9-4771 của ông Trương Quang V dựng phía trước, trên xe còn để sẵn chìa khóa, Q lén lút lấy trộm xe của ông V nổ máy chạy đi thì bị quần chúng nhân dân phát hiện truy đuổi đến khu vực ấp N, xã M, huyện TH, tỉnh Tây Ninh bắt giữ được Q cùng tang vật giao cho Công an huyện Hòa Thành xử lý.

Tại Kết luận định giá tài sản số 22/KLĐG-TTHS ngày 24/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hòa Thành kết luận: xe mô tô biển số 70H9- 4771, nhãn hiệu Wave, số máy HC08E-0370306, số khung HHC08092Y370107, đăng ký năm 2013 giá 5.000.000 đồng.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 02/QĐ-VKSHT ngày 08 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức án từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

- Các biện pháp tư pháp: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, Kiểm sát viên thu thập: Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập đều được tiến hành đúng theo trình tự, thủ tục luật định. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do dó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận định giá tài sản, lời khai của người bị hại, người làm chứng, tang vật vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 18/4/2018 tại tiệm muối ớt “Mỹ Lan” thuộc Khu phố 1, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn Q có hành vi lén lút lấy trộm của ông Trương Quang V 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số 70H9-4771 trị giá 5.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành truy tố bị cáo Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ; đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Với ý thức chủ quan, bị cáo nhận thức được hành vi xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo phải tự sửa chữa bản thân để trở thành người tốt, nhưng ngược lại bị cáo tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Trương Quang V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18/4/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận ông Trương Quang V đã nhận lại tài sản xong.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại văng măt được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về