Bản án 20/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỦA CHÙA, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2018/TLST-HS ngày 05/11/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phàn A N (tên gọi khác: không) - Sinh năm 1977 tại huyện H, tỉnh C; Nơi cư trú: Thôn L, xã S, huyện C, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; Trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt nam;

Con ông Phàn A B (đã chết) và con bà Vàng Thị C (tên gọi khác: Vàng Thị P) - SN 1937; Bị cáo có vợ là Lý Thị D ( tên gọi khác: Lý Thị G) - SN 1977 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2013 bị TAND huyện H, tỉnh C xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 28/02/2014. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2018 đến ngày 15/8/2018; Bắt tạm giam từ ngày 16/8/2018 cho đến nay. Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ trưa ngày 09/8/2018 bị cáo mượn xe mô tô của anh Lý A D cùng trú tại thôn L, xã S lên xã N để tìm mua Heroine. Khi đến thôn Q, xã N bị cáo gặp một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 60 tuổi không biết tên, địa chỉ ở đâu đang đứng ngoài đường, bị cáo hỏi người phụ nữ đó có Heroine bán không nhưng người phụ nữ nói là "không có đến tối mới có". Bị cáo đi chơi ở thôn Q, xã N đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì gặp lại người phụ nữ lúc trước và bị cáo lại hỏi mua Heroine với người phụ nữ đó thì người phụ nữ nói " có một ít, đưa tiền đây tôi đi lấy cho", sau đó bị cáo đưa tiền 300.000đồng cho người phụ nữ nhờ mua hộ ma túy, khoảng 30 phút sau người phụ nữ quay lại và đưa cho bị cáo 01 gói Heroine được ngoài bằng miếng giấy nilon màu trắng. Khi được mua Heroine bị cáo lấy ra một ít để sử dụng ngay bên cạnh đường bằng hình thức chích, số Heroine còn lại bị cáo gói lại bằng miếng giấy nilon màu trắng như cũ và gói thêm bên ngoài bằng miếng nilon màu xanh của vỏ bao thuốc lào và cầm gói Heroine ở bàn tay trái và điều khiển xe mô tô đi về. Đến 00 giờ 15 phút ngày 10/8/2018 khi đến đoạn đường thuộc thôn E, xã S, huyện C bị tổ công tác Đội cảnh sát Điều tra Công an huyện C yêu cầu dừng xe kiểm tra, do sợ bị phát hiện và bắt giữ nên bị cáo đã vứt gói Heroine đang cầm trên tay xuống mặt đường, nhưng đã bị tổ công tác phát hiện, thu giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Mục đích bị cáo mua ma túy về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói bên trong có chứa chất bột màu trắng thể rắn nghi là Heroine được gói ngoài bằng miếng nilon màu xanh của vỏ bao thuốc lào; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVERSX màu sơn đỏ - đen - bạc, không có biển kiểm soát.

Quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ dân tộc Thái đã mua hộ ma túy cho bị cáo và người đã bán ma túy là ai, ở đâu.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định xác định gói chất bột màu trắng thể rắn thu giữ của Phàn A Ngụ có trọng lượng là 0,6716gam.

Tại bản kết luận giám định số: 737/GĐ – PC54 ngày 21/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Trọng lượng chất bột màu trắng thu giữ của Phàn A N 0,6716gam; Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy: Loại Heroine, Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Không hoàn lại mẫu vật sau giám định.

Cáo trạng số: 17/CT – VKSHTC ngày 05/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Phàn A N về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung; Về vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 của BLTTHS năm 2015: Chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng của cơ quan điều tra việc trả lại tài sản cho Lý A D: 01 chiếc xe mô tô; Tịch thu và tiêu hủy: 0,5882gam Heroine còn lại; Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Sau khi nghe kiểm sát viên luận tội bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xétxử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Do nghiện ma túy, nên vào lúc 18 giờ ngày 09/8/2018 bị cáo đã đưa 300.000đồng cho một người phụ nữ dân tộc Thái không quen biết nhờ mua hộ Heroine cho bị cáo và đã mua được 01 gói Heroine với giá 300.000đồng. Sau khi mua được Heroine bị cáo lấy ra một ít sử dụng ngay bên cạnh đường, số Heroine còn lại chưa sử dụng hết bị cáo gói lại bằng miếng giấy nilon màu trắng và gói thêm bên ngoài bằng miếng nilon màu xanh của vỏ bao thuốc lào và cất giấu gói Heroine bên tay trái và điều khiển xe mô tô đi về. Đến 00 giờ 15 phút ngày 10/8/2018 tại đoạn đường thuộc thôn E, xã S, huyện C bị tổ công tác Điều tra Công an huyện C yêu cầu dừng xe kiểm tra, do trên người đang cất giấu Heroine nên bị cáo đã thả gói Heroine trong tay xuống mặt đường, nhưng đã bị tổ công tác phát hiện và bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Việc bị cáo cất giấu ma túy chỉ một mình bị cáo biết.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người đã chứng kiến khi bắt quả tang bị cáo và phù hợp các chứng cứ khác của vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và Bản kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã cố ý mua trái phép 0, 6716 gam Heroine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình bị Nhà nước nghiêm cấm và sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Hành vi của bị cáo xã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà trực tiếp là hoạt động quản lý của Nhà nước về Tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi khỏi xã hội một thời gian nhất định để ngăn ngừa tội phạm và giáo dục bị cáo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo. Bị cáo không có tiền sự, năm 2013 bị TAND huyện H, tỉnh C xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tuy đã được xóa án tích nhưng cần xem xét về nhân thân khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo, mặt khác trong giai đoạn hiện nay tệ nạn ma túy trên địa bàn ngày càng nghiêm trọng gây sói mòn đạo đức và là nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng, không có việc làm và thu nhập thường xuyên, gia đình thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về các vấn đề khác:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được người phụ nữ dân tộc Thái đã mua hộ ma túy cho bị cáo và người đã bán ma túy là ai, ở đâu nên HĐXX không có cơ sở để xem xét, xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc xe mô tô, quá trình điều tra đã làm rõ Lý A D không biết việc bị cáo mượn xe với mục đích làm phương tiện phạm tội, do đó không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cơ quan điều tra đã xử lý bằng hình thức trả lại tài sản cho Lý A D là phù hợp nên HĐXX chấp nhận. Số Heroine còn lại 0,5882gam là chất thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình thuộc hộ nghèo năm 2018 nên cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phàn A N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phàn A N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/8/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của BLTTHS năm 2015.

- Chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng của cơ quan điều tra: Trả lại cho Lý A D: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVERSX màu sơn đỏ - đen - bạc

- Tịch thu và tiêu hủy: 0,5882 gam Heroine còn lại đã được niêm phong trong một phong bì thư do bưu điện phát hành.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện C đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C và Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 của BLTTHS năm 2015, điểm đ khoản 1 Điều 12, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/11/2018)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về