Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 03/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 20/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 66/2018/TLST-HNGĐ  ngày 21/3/2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐST- HNGĐ ngày 31/5/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2018/QĐST - HNGĐ ngày 19/6/2018 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Chị Vũ Thanh H, sinh năm 1989

Địa chỉ: Tổ 4, khu 1, phường Y, thành phố U, Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt.

2.  Bị đơn: Anh Đỗ Mạnh C, sinh năm 1989

Địa chỉ: Tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U, Quảng Ninh. Vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do và không có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vũ Thanh H và anh Đỗ Mạnh C kết hôn tự nguyện với nhau năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, chị H và anh C về chung sống cùng nhau tại tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc sau đó thì phát sinh mâu thuẫn nên chị H làm đơn xin ly hôn với anh C. Trong quá trình chung sống, chị H và anh C có 02 con chung là Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010 và Đỗ Nhật M, sinh ngày 09/8/2012.

Quan điểm của nguyên đơn chị Vũ Thanh H: Vợ chồng chung sống được bốn năm hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C mải chơi, không lo làm ăn, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống hay xảy ra cãi cọ, đánh chửi nhau. Vợ chồng anh C, chị H đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Nay, chị H đề nghị được ly hôn với anh C. Cùng với yêu cầu được ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đỗ Nhật M, sinh ngày 08/9/2012 và anh Đỗ Mạnh C nuôi cháu Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập, thông báo các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định của pháp luật cho anh Đỗ Mạnh C tuy nhiên anh Đỗ Mạnh C vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày.

Tại biên bản xác M ngày 04/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh - bà Nguyễn Thị D(là mẹ đẻ của anh Đỗ Mạnh C) cung cấp sự việc: Chị H và anh C kết hôn năm 2010. Trong quá trình vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do chị H và anh C không có công việc ổn định nên xảy ra bất đồng về quan điểm sống, về kinh tế gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Trong quá trình sống ly thân mỗi người một nơi không ai quan tâm đến ai. Nay, chị H gửi đơn ly hôn bà D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: chị H và anh C có 02 con chung là cháu Đỗ Gia H, Đỗ Nhật M. Khi chị H, anh C sống ly thân thì cháu H ở với bà và anh C còn cháu M ở với chị H. Nay, chị H có quan điểm nuôi cháu M, anh C nuôi cháu H thì bà Dung đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của chị H.

Tại biên bản xác M ngày 04/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh - ông Trần Văn L - Phó khu 1, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh cung cấp sự việc: Chị H và anh C sinh sống tại tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Trong quá trình anh C, chị H chung sống thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách vợ chồng không phù hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng chị H, anh C đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Nay, chị H gửi đơn xin ly hôn với anh C, ông L đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng việc thụ lý vụ án về trình tự, thủ tục, thẩm quyền. Việc xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử... Hoạt động giải quyết của Thẩm phán đảm bảo đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên toà: HĐXX đã tuân theo đúng các quy định của BLLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án .

* Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Cuộc sống hôn nhân của vợ chồng chị Vũ Thanh H và anh Đỗ Mạnh C đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài cũng như mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thanh H, cho chị H ly hôn với anh C.

Về con chung: Các đương sự có 02 con chung là cháu Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010 và cháu Đỗ Nhật M, sinh ngày 09/8/2012. Chị H có nguyện vọng nuôi cháu M, cháu H có nguyện vọng sống chung với bố. Xét thấy là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Vũ Thanh H khởi kiện về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình với anh Đỗ Mạnh C và cung cấp các tài liệu làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Bị đơn anh Đỗ Mạnh C có nơi cư trú tại tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

[2] Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thanh H và anh Đỗ Mạnh C từ năm 2010 cho đến nay là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo hộ. HĐXX xét thấy để cuộc sống vợ chồng hôn nhân tồn tại, mục đích hôn nhân đạt được thì phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của hai bên vợ chồng, phải thương yêu, quý trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, chị H và anh C phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi cọ. Chị H, anh C đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Trong quá trình sống ly thân không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C đã trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010 và Đỗ Nhật M, sinh ngày 09/8/2012. Chị H có nguyện vọng nuôi cháu M, anh C nuôi cháu H, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét nguyện vọng nuôi con của chị H thì thấy: Chị H và anh C có 02 con chung, anh C, chị H đều có đủ điều kiện để nuôi con. Khi chị H và anh C sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay thì cháu Đỗ Gia H vẫn ở với anh C, cháu Đỗ Nhật M ở với chị H. Mặt khác, tại biên bản lấy lời khai ngày 18/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí đối với cháu Đỗ Gia H thì cháu H có nguyện vọng vẫn tiếp tục ở với bố. Như vậy, HĐXX chấp nhận đề nghị nuôi dưỡng con chung của chị H giao con chung là Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010 cho anh Đỗ Mạnh C được trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Đỗ Nhật M, sinh ngày 09/8/2012 cho chị Vũ Thanh H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

-Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

-Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thanh H. Tuyên xử:

1. Cho chị Vũ Thanh H được ly hôn anh Đỗ Mạnh C.

2. Về con chung:

Giao con chung Đỗ Gia H, sinh ngày 25/3/2010 cho anh Đỗ Mạnh C trực tiếp nuôi dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Giao con chung Đỗ Nhật M, sinh ngày 09/8/2012 cho chị Vũ Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Anh Đỗ Mạnh C, chị Vũ Thanh H đều không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau ly hôn, đương sự không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Đồng thời đương sự không trực tiếp nuôi dưỡng con chung không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Sau khi ly hôn, các đương sự có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nếu có yêu cầu, theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Vũ Thanh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị H đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000310 ngày 21/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 03 tháng 7 năm 2018.

Vắng mặt bị đơn anh Đỗ Mạnh C, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 03/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:20/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về