Bản án 20/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 20/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2017/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2017 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1987; cư trú tại: Thôn A, xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn X, sinh năm 1984; cư trú tại: Thôn A, xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 6 năm 2017 và những lời khai trong quá trình làm việc cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn X kết hôn ngày 11 tháng 01 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi kết hôn vợ chồng chị được tự do tìm hiểu, rồi tự nguyện đi đến hôn nhân. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống cùng gia đình nhà anh X ở thôn A, xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; đến năm 2009 vợ chồng chị ra ở riêng nhưng vẫn sống chung trên đất của bố mẹ chồng. Tình cảm vợ chồng ngay từ đầu đã không có hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau. Nguyên nhân là do anh X không tu chí làm ăn, không có trách nhiệm vun đắp cuộc sống gia đình, chị đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh X không nghe, vợ chồng chị vẫn luôn bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung. Năm 2014, chị làm đơn ra Tòa để giải quyết ly hôn nhưng sau đó lại rút đơn để vợ chồng đoàn tụ, sau khi đoàn tụ anh X vẫn không thay đổi, tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, mâu thuẫn xảy ra nhiều hơn nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ chị ở từ năm 2015, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nếu có đoàn tụ để vợ chồng tiếp tục chung sống cũng không mang lại hạnh phúc cho nhau, vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn X để cả hai có cơ hội tạo lập cuộc sống mới.

Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là cháu Nguyễn Văn L, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2008 và cháu Nguyễn Mạnh P, sinh ngày 27 tháng 5 năm 2012, kể từ khi chị và anh X sống ly thân cháu L và cháu P vẫn ở với chị nhưng từ ngày 03 tháng 9 năm 2017, anh X đã đón cháu L về ở cùng anh X nên hiện nay cháu L đang ở cùng anh X, cháu P đang ở cùng chị. Ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P; để anh X được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

Về tài sản: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn X vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình giải quyết vụ án anh trình bày:

Anh nhất trí với lời trình bày của chị T về thời gian đăng ký kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh đã có nhiều mâu thuẫn nên năm 2014, chị T làm đơn xin ly hôn được Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên giải quyết nhưng sau đó chị T rút đơn về để vợ chồng cải thiện cuộc sống nhưng không thành, vẫn thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vì vậy, từ năm 2015 đến nay vợ chồng anh đã sống ly thân, thời gian sống ly thân hai bên đã không còn quan tâm gì nhau nữa. Nay chị T khởi kiện xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn. Tuy nhiên, vì các con nên anh không đồng ý ly hôn, nếu không đoàn tụ để chung sống được thì anh xác định sống ly thân như hiện tại.

Về nuôi con chung: Anh xác nhận lời trình bày của chị T là đúng. Vợ chồng anh có hai con chung là cháu Nguyễn Văn L, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2008 và cháu Nguyễn Mạnh P, sinh ngày 27 tháng 5 năm 2012. Nếu phải ly hôn anh đồng ý với quan điểm của chị T là để anh được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L; chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

Về tài sản: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng và của người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định; người tham gia tố tụng chị T đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh X được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai vẫn vắng mặt.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn X; giao con chung là cháu Nguyễn Mạnh P, sinh ngày 27 tháng 5 năm 2012 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Văn L, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2008 cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau; về chia tài sản các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Chị Lê Thị T khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn anh Nguyễn Văn X và đề nghị phân chia nuôi con chung, do đó đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Văn X hiện đang cư trú tại thôn A, xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, theo qui định tại các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng cố tình vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn X đều thừa nhận vợ chồng anh, chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S và qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã S thể hiện chị T và anh X có đăng ký kết hôn ngày 11 tháng 01 năm 2008, vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh X là hợp pháp. Quá trình chung sống, do luôn bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống hàng ngày nên cuối năm 2014 chị T, anh X đã ra Tòa để giải quyết ly hôn nhưng sau đó lại rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ; từ khi đoàn tụ vợ chồng vẫn thường xuyên mâu thuẫn nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Trong những lần làm việc tại Toà án và tại phiên toà chị T đều khẳng định tình cảm vợ chồng với anh X không còn, việc đoàn tụ là không thể, chị vẫn đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh X, nếu Toà án không cho chị ly hôn thì chị cũng không thể về đoàn tụ với anh X được. Quá trình giải quyết vụ án, anh X thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng xảy ra đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay nhưng anh không đồng ý ly hôn mà quan điểm muốn vợ chồng sống ly thân như hiện tại. Xét, nguyện vọng của anh X như vậy là không phù hợp. Bản thân anh X cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng xảy ra đã lâu, không còn yêu thương, chăm sóc nhau, không cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh X là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

Về nuôi con chung: Chị T và anh X thống nhất vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Văn L, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2008 và cháu Nguyễn Mạnh P, sinh ngày 27 tháng 5 năm 2012. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị T xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P để anh X trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh X nhất trí quan điểm của chị T. Xét nguyện vọng nuôi con chung của chị T và anh X là phù hợp nên cần giao cháu L cho anh X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, đó cũng là nguyện vọng của cháu L; giao cháu P cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau nhưng có quyền nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở gây khó khăn.

Về tài sản: Chị T và anh X không đề nghị Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Sau khi ly hôn, nếu các đương sự có đề nghị về tài sản thì Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo qui định của pháp luật.

3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải chịu theo qui định pháp luật.

 [4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn X.

Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Mạnh P, sinh ngày 27 tháng 5 năm 2012 cho chị Lê Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Văn L, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2008 cho anh Nguyễn Văn X được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở, gây khó khăn.

Về tài sản: Chị T và anh X không đề nghị Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Sau khi ly hôn, nếu các đương sự có đề nghị về tài sản thì Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo qui định của pháp luật.

Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số: AA/2016/0002292 ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Chi cục Thi hành dân sự huyện Bình Xuyên; chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt cũng có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về