Bản án 20/2017/HNGĐ-ST ngày 12/07/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 20/2017/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N - tỉnh KhánhHòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 331/2016/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2016 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2017/QĐST - HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trà Thị Thu T – sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Thôn Phú C 1, xã Vạn P, huyện N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H– sinh năm: 1972;

Hộ khẩu thường trú: Thôn Phú C 1, xã Vạn P, huyện N, tỉnh Khánh Hòa.

Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố số 07 thị trấn V, huyện N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/11/2016, biên bản lấy lời khai ngày 17/11/2016 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trà Thị Thu T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2000 và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V, huyện N, tỉnh Khánh Hòa. Giấy chứng nhận kết hôn số 114 cấp ngày 26/9/2000.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hợp, không tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau nên giữa vợ chồng thường xảy ra xích mích, cãi vã, đánh đập, xúc phạm nhau. Từ tháng 03/2016 anh H bỏ về nhà cha mẹ tại tổ dân phố số 07 thị trấn V, huyện N sinh sống, vợ chồng không còn quan hệ gì với nhau nữa. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu xin được ly hôn.

- Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Trà Đăng H1 - sinh ngày 15/6/2001 và Nguyễn Trà Thanh Th - sinh ngày 24/6/2005 hiện đang do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T yêu cầu khi vợ chồng ly hôn thì được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị T xác định giữa vợ chồng không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn anh Nguyễn Văn H đến Tòa để Tòa án lấy lời khai và tham gia phiên hòa giải nhưng anh H đều không có mặt để làm việc theo Giấy triệu tập và Thông báo về phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải của Toà án, nên Toà án không lấy được lời khai và không hòa giải được vụ án.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn H là bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh H kết hôn tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện N cấp Giấy chứng nhận kết hônsố 114 ngày 26 tháng 9 năm 2000. Nên quan hệ hôn nhân giữa chị Trà Thị Thu T và anh Nguyễn Văn H được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn H. Xét lời khai của chị T thì thấy cuộc sống chung vợ chồng giữa chị T và anh H có nhiều mâu thuẫn và không tìm được phương pháp nào để tiếp tục sống chung với nhau nữa. Vợ chồng thường xảy ra xích mích, cãi vã, đánh đập, xúc phạm nhau. Từ tháng 03/2016 đến nay vợ chồng đã mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm, chăm sóc ai. Như vậy mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã đến hồi trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, anh H đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến Tòa để Tòa án lấy lời khai và tham gia phiên hòa giải để giải quyết việc ly hôn giữa hai người nhưng anh H không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Toà án. Điều đó chứng tỏ anh H không quan tâm gì đến cuộc hôn nhân này nữa nên việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của chị T.

- Về con chung: Chị T yêu cầu khi vợ chồng ly hôn thì được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung là Nguyễn Trà Đăng H1 - sinh ngày 15/6/2001 và Nguyễn Trà Thanh Th sinh ngày 24/6/2005 cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Xét: Hiện nay các con chung Nguyễn Trà Đăng H1 và Nguyễn Trà Thanh Th đang do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 17/11/2016 cháu Th yêu cầu được sống chung với mẹ và tại Biên bản lấy lời khai ngày18/11/2017 cháu H cũng yêu cầu được sống chung với mẹ. Xét yêu cầu của chị T về việc được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì thấy nên giao cho chị T

trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung là Nguyễn Trà Đăng H1 - sinh ngày 15/6/2001 và Nguyễn Trà Thanh Th sinh ngày 24/6/2005 cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) là có căn cứ và đúng luật.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không có yêu cầu nên Tòa không xem xét.

- Về tài sản chung: Chị Trà Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Trà Thị Thu T xác định vợ chồng không nợ của ai, không ai nợ của vợ chồng.

- Về án phí: Chị Trà Thị Thu T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Chị Trà Thị Thu T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

- Giao cho chị Trà Thị Thu T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 (hai) con chung là Nguyễn Trà Đăng H1 - sinh ngày 15/6/2001 và Nguyễn Trà Thanh Th sinh ngày 24/6/2005 cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và chị Trà Thị Thu T không yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết chị T, anh H đều có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung cũng như cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị Trà Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Trà Thị Thu T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2012/0007300 ngày 17 tháng 11 năm 2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh. Chị T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/HNGĐ-ST ngày 12/07/2017 về ly hôn

Số hiệu:20/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về