Bản án 199/2020/HNGĐ-ST ngày 21/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LB, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 199/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận LB, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 49/2020/TLST-HNGĐ ngày 05/02/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXX-ST ngày 05/5/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đ ơn : Anh LTA - Sinh năm 1986 (Có mặt) HKTT: Thôn TCB, xã VC, huyện KX, tỉnh TB.

Tm trú: Số 89 phố LM, phường VH, quận LB, thành phố Hà Nội.

Bị đơn : Chị NTH - Sinh năm 1982 (Có mặt) HKTT: Số 185 A13, AD, phường YP, quận TH, thành phố Hà Nội.

Tm trú: Số 14 ngách 640/43 phố NVC, phường GT, quận LB, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án, Nguyên đơn là anh LTA trình bày:

Anh và chị NTH xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 09/5/2017 tại UBND phường YP, quận TH, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại Bắc Giang là quê chị Huấn. Đến năm 2018, anh chị chuyển về thuê nhà ở tại tổ 11, phường GT, quận LB, thành phố Hà Nội. Ngay sau khi về chung sống, giữa anh chị đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, lối sống. Năm 2019, chị Huấn nghi ngờ anh ngoại tình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xúc phạm anh, vợ chồng thường xuyên căng thẳng, cãi vã, xô xát. Anh đó chuyển ra ngoài thuê nhà sống từ tháng 12/2019. Anh chị chính thức ly thân từ thời gian này. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh kiên quyết xin ly hôn chị Huấn.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Lều Tố Trúc Anh – sinh ngày 22/10/2017 (Nữ), hiện đang sống cùng chị Huấn. Sau khi ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Anh không yêu cầu chị Huấn phải cấp dưỡng nuôi con cho anh. Hiện anh đang làm nhân viên phòng sản xuất Công ty TNHH NIKKISO Việt Nam tại khu công nghiệp Thăng Long 2, xã Liêu Xã, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, thu nhập bình quân khoảng 19.000.000đ (Mười chín triệu đồng)/ tháng. Anh có chỗ ở ổn định là nhà thuê tại số 89 phố LM, phường VH, quận LB, thành phố Hà Nội.

- Về tài sản chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh Thế Anh chịu toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

*Bị đơn - chị NTH trình bày: Chị và anh Thế Anh xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng như anh Thế Anh trình bày. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại Bắc Giang là quê chị. Đến năm 2018, anh chị chuyển về thuê nhà ở tại tổ 11, phường GT, quận LB, thành phố Hà Nội. Anh chị chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Thế Anh có bản tính trăng hoa. Khi anh chị vẫn đang chung sống hạnh phúc với nhau, còn chưa ly thân anh Thế Anh đã tuyên bố với mọi người rằng anh chị đã ly hôn để dễ bề tán tỉnh chinh phục các cô gái khác. Vợ chồng vì thế thường xuyên căng thẳng cãi vã, xô xát. Anh Thế Anh đã chuyển ra ngoài thuê nhà sống từ cuối năm 2019. Anh chị chính thức ly thân từ thời gian này. Quá trình giải quyết tại Tòa, chị chưa đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa, chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị đồng ý thuận tình ly hôn với anh Thế Anh.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung đúng như anh Thế Anh trình bày. Cháu Trúc Anh hiện đang ở cùng chị. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị yêu cầu anh Thế Anh phải cấp dưỡng nuôi con cho chị số tiền là 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghỡn đồng chẵn)/ tháng. Ngoài cháu Trúc Anh, chị Huấn đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 01 con riêng của chị. Hiện chị đang làm nhân viên phiên dịch tiếng Trung Quốc tại Công ty TNHH Nhôm Vĩnh Hưng Việt Nam tại khu công nghiệp Tân Hồng, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, thu nhập bình quân khoảng 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng)/ tháng, có chỗ ở ổn định là nhà thuê tại số 14 ngách 640/43 phố NVC, phường GT, quận LB, thành phố Hà Nội.

- Về tài sản chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh Thế Anh phải chịu án phí theo quy định. Tại phiên tòa, các đương sự vẫn giữ nguyên toàn bộ các lời khai và yêu cầu của mình, không có ý kiến gì bổ sung và không đề nghị đưa thêm người vào tham gia tố tụng trong vụ án.

Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

- Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Các đương sự chấp hành đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Thế Anh, chị Huấn xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/5/2017 tại UBND phường YP, quận TH, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống, giữa anh chị phát sinh mâu thuẫn căng thẳng, trầm trọng, thời gian ly thân đã kéo dài. Tại phiên tòa, cả hai anh chị cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, thuận tình ly hôn, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn cho anh chị.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là 01 con chung là Lều Tố Trúc Anh – sinh ngày 22/10/2017 (Nữ). Cháu Trúc Anh hiện đang sống cùng chị Huấn, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao con chung cho chị Huấn chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Thế Anh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho chị Huấn theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết nên đề nghị không xét.

- Về án phí: Anh Thế Anh phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đợc thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1- Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh LTA xin ly hôn chị NTH có hộ khẩu thường trú tại: Số 185 A13, AD, phường YP, quận TH, thành phố Hà Nội. Qua xác minh thu thập chứng cứ thì hiện nay chị Huấn đang cư trú tại địa chỉ: Số 14 ngách 640/43 phố NVC, phường GT, quận LB, thành phố Hà Nội. Do vậy,việc anh Thế Anh khởi kiện là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận LB, thành phố Hà Nội.

2- Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Thế Anh, chị Huấn xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/5/2017 tại UBND phường YP, quận TH, thành phố Hà Nội. Xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Ngay sau khi kết hôn,cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, do tính cách, lối sống trái ngược nhau. Vợ chồng không có niềm tin ở sự chung thủy của nhau, không tôn trọng lẫn nhau nên cuộc sống chung thường xuyên căng thẳng, không có hạnh phúc. Anh chị chính thức ly thân và cắt đứt mọi quan hệ từ cuối năm 2019. Tại phiên tòa, anh Thế Anh và chị Huấn cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, xin được thuận tình ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung là Lều Tố Trúc Anh – sinh ngày 22/10/2017 (Nữ). Cháu Trúc Anh hiện đang ở cùng chị Huấn. Xét điều kiện và khả năng nuôi con của hai bên, Hội đồng xét xử thấy hiện tại cả hai anh chị đều có công việc, thu nhập và nơi ở ổn định. Tuy nhiên, do cháu Trúc Anh là nữ, còn nhỏ rất cần sự chăm sóc, quan tâm nhiều hơn từ phía người mẹ, nên giao con chung cho chị Huấn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh Thế Anh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho chị Huấn theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản và công nợ, các bên có quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Anh Thế Anh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.0000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí về cấp dưỡng nuôi con.

Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Cụng nhận thuận tình ly hôn giữa anh LTA và chị NTH.

2. Về con chung: Giao con chung là Lều Tố Trúc Anh – sinh ngày 22/10/2017 (Nữ) cho chị NTH được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Trúc Anh thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh Thế Anh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho chị Huấn số tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng chẵn)/ tháng, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Trúc Anh thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh Thế Anh có quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Không có nên không giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản và công nợ, các bên có quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Anh Thế Anh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí về cấp dưỡng nuôi con. Xác nhận anh Thế Anh đã nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0015950 ngày 05/02/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận LB, thành phố Hà Nội. Anh Thế Anh phải nộp tiếp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 199/2020/HNGĐ-ST ngày 21/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:199/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về