Bản án 199/2018/HNGĐ-ST ngày 13/08/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 199/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 13 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 160/2017/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2018 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - Sinh năm 1989. Địa chỉ: Tiểu khu X, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La.

2. Bị đơn: Anh Lại Thanh H - Sinh năm 1987. Địa chỉ: Tiểu khu X, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 07 tháng 5 năm 2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày.

Chị và anh Lại Thanh H kết hôn với nhau vào ngày 14/4/2015. Khi kết hôn hai anh chị đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn M, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Sau khi kết hôn hai anh chị về ở chung cùng bố mẹ anh H. Cuộc sống chung vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc được 03 tháng đến tháng 7 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã đuợc gia đình và chính quyền địa phương hoà giải nhưng không thành. Hai anh chị đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2016 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T viết đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lại ThanhH.

Về con chung: Có một cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015, trường hợp ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bảo N đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh Hải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Nghề nghiệp của chị hiện nay là làm cán bộ văn phòng UBND huyện M.

Mức thu nhập trung bình từ tiền lương hàng tháng là 2.500.000đ/tháng.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.

Về tài sản riêng, vay nợ riêng: Không có.

Bị đơn anh Lại Thanh H trình bày:

Anh hoàn toàn nhất trí với phần trình bày của chị Nguyễn Thị T về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn. Nay chị Trang có đơn xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn, nguyện vọng của anh xin được đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Có một cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015, trường hợp ly hôn, nguyện vọng của anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bảo N đến khi trưởng thành và không yêu cầu chị T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Nghề nghiệp của anh hiện nay là chuyên viên Ban quản lý khu du lịch quốc gia M. Mức thu nhập trung bình từ tiền lương hàng tháng là 3.800.000đ/tháng.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.

Về tài sản riêng, vay nợ riêng: Không có.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến như sau:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký: Từ khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tham gia đúng thành phần như trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, các trình tự của phiên tòa sơ thẩm diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án cụ thể như sau:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Lại Thanh H được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

Do chị Trang không yêu cầu anh H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, do vậy không giải quyết.

- Về án phí: Chi Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ kiện, chị Nguyễn Thị T đã cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Lại Thanh H có đăng ký kết hôn ngày 14/4/2015 tại UBND thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Việc kết hôn của hai anh chị đã tuân thủ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, do đó được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn, tình cảm vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến tháng 7 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, hai anh chị đã sống ly thân từ tháng 1 năm 2016 đến nay, không ai đi lại thăm hỏi nhau nữa.

Tại biên bản xác minh với chính quyền địa phương lập ngày 09/7/2018 được biết: Sau khi kết hôn, vợ chồng chị T, anh H về chung sống cùng bố mẹ anh H tại Tiểu khu X, thị trấn M, huyện M. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị thường mxuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống của hai anh chị không hợp nhau, đã được gia đình và tiểu khu hòa giải nhưng không thành, hai anh chị đã sống ly thân.

Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng anh, chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T và xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lại Thanh H.

[3] Về con chung: Chị T và anh H đều xác định có một con chung là cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015, cháu Ngọc hiện đang được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa các đương sự đều có nguyện vọng xin được nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn.

Xét thấy cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015, hiện nay dưới 36 tháng tuổi. Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, …”.

Về điều kiện thực tế: Các đương sự đều có công việc, thu nhập ổn định đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung sau khi ly hôn.

Tại biên bản xác minh lập ngày 10/7/2018 với đại diện Ban quản lý khu du lịch quốc gia M được biết: Công việc hiện nay của anh H là thường trực văn phòng Thông tin quảng bá du lịch M đóng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Khi cơ quan, chi bộ và các cuộc họp đột xuất anh H vẫn tham gia, trung bình từ 1 – 2 lần/tháng.

Từ những căn cứ nêu trên và để đảm bảo cho sự phát triển bình thường về tinh thần, thể chất cần giao cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Về đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn: Chị T không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, vay nợ chung: Hai anh chị đều xác định không có nên Tòa án không đề cập, giải quyết.

[5] Về tài sản riêng, vay nợ riêng: Hai anh chị đều xác định không có nênTòa án không đề cập, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Lại Thanh H được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Lại Bảo N – Sinh ngày 24/8/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

3. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000569 ngày 07/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 199/2018/HNGĐ-ST ngày 13/08/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:199/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về