Bản án 199/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 199/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 200/2017/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phàng Thị C, sinh năm 1966 tại huyện M, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Bản L, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Phàng A P và bà Hờ Thị P (Đều đã chết); có chồng là Giàng A C (Đã chết); có 06 con, con lớn nhất sinh năm 1984, con nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2017 đến nay. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phàng Thị C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 05/6/2017, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Phòng PC47 Công an tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại tiểu khu P, thị trấn N, huyện M kiểm tra phát hiện Phàng Thị C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Phàng Thị C: 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 07 gói nilon màu hồng, bên trong mỗi gói đều đựng cục bột màu trắng, C khai nhận đó là Hêrôin của C cất giấu để sử dụng do bản thân C nghiện ma túy. Tạm giữ của C: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có 01 sim số Viettel; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 200.000 đồng và 01 chiếc túi vải màu đen có dây đeo.

Ngày 05/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu – Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu – Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng số cục bột màu trắng nghi là Hêrôin thu giữ của Phàng Thị C có trọng lượng là 0,46 gam. Lấy 0,18 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu C, xác định có phải là chất ma túy không, loại chất ma túy gì, trọng lượng (khối lượng) của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Tại Kết luận giám định số 617/KLMT ngày 10/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu C là chất ma túy; Loại chất Hêrôin; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,46 gam; Loại chất Hêrôin.

Về nguồn gốc và mục đích cất giữ ma túy, Phàng Thị C khai nhận mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết vào khoảng 18 giờ ngày 04/6/2017 tại đường dân sinh của tiểu khu P, thị trấn N, huyện M được 07 gói Hêrôin với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Hêrôin C đã lấy một ít ra sử dụng, Số Hêrôin còn lại C gói lại như cũ rồi cất vào túi vải đeo trên người.

Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 29/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố Phàng Thị C về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phàng Thị C phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Phàng Thị C từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. 

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án: Trả lại cho bị cáo Phàng Thị C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có 01 sim số Viettel. Tạm giữ số tiền 200.000đ thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án về án phí. Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc túi vải màu đen có dây đeo, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phàng Thị C, bắt ngày: 05/6/2017 (0,28 gam Hêrôin cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Phàng Thị C giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 05/6/2017, bị cáo Phàng Thị C đã tàng trữ trái phép 0,46 gam Hêrôin để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì người nào tàng trữ trái phép từ 0,1 gam Hêrôin đến dưới 05 gam Hêrôin thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người nào tàng trữ trái phép từ 0,1 gam Hêrôin đến dưới 05 gam Hêrôin thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội tàng trữ trái phép chất ma túy có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Về nhân thân, bị cáo phạm tội lần đầu, là đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, cần quyết định hình phạt nghiêm khắc và phù hợp với hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên toà thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người bán ma túy, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Về vật chứng của vụ án, áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có 01 sim số Viettel là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội, xét cần trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 200.000 đồng là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội, xét cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án về án phí.

Đối với 01 chiếc túi vải màu đen có dây đeo và 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phàng Thị C, bắt ngày: 05/6/2017 (0,28 gam Hêrôin cùng vỏ gói niêm phong ban đầu) là vật nhà nước cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng, xét cần tịch thu tiêu hủy.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phàng Thị C phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Phàng Thị C 18 (Mươi tam) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 05 tháng 6 năm 2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 túi vải màu đen có dây đeo; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phàng Thị C, bắt ngày: 05/6/2017 (0,28 gam Hêrôin cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).

Trả lại cho bị cáo Phàng Thị C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bên trong có 01 sim số Viettel.

Tạm giữ của Phàng Thị C số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng chẵn) để đảm bảo thi hành án về án phí.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phàng Thị C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 199/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:199/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về