Bản án 198/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 198/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 27 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 147/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Thị H (Tên gọi khác: L1); Sinh năm 1998; ĐKHKTT tại: Khu 2 Thị trấn G, huyện G, tỉnh H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Mạnh M1 và bà Hồ Thị M2; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Lê Thị Kiều L2 – Sinh năm 1990; Trú tại: Số 59 C, phường H, quận H, Thành phố H; vắng mặt.

2. Anh Lê Văn P – Sinh năm 1989; Trú tại: Xóm 7 T, huyện T, tỉnh N; vắng mặt.

3. Anh Phạm Tiến T – Sinh năm 1993; Trú tại: Thôn M, xã V, huyện T, Thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/4/2019, Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Trật tự xã hội Công an quận Hoàn Kiếm làm nhiệm vụ trên địa bàn đã tiến hành kiểm tra hành chính khách sạn Louis số 24 Quán Sứ, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Qua kiểm tra, đã phát hiện tại phòng 201 có Đỗ Thị H và Phạm Tiến T, tại phòng 301 có Lê Văn Phong và Lê Thị Kiều L2 đang có hành vi mua bán dâm. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và đưa các đối tượng về trụ sở để giải quyết.

- Thu giữ của Đỗ Thị H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi có sim số 0336518555 và số tiền 5.000.000 đồng.

- Thu giữ của Lê Thị Kiều L2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu bạc 16GB có sim số 0988183618 và số tiền 3.000.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Phạm Tiến T có quen biết với Đỗ Thị H và biết H là gái mại dâm. Ngày 10/4/2019, T ngồi uống nước cùng Lê Văn P thì nảy sinh ý định muốn mua dâm nên đã dùng điện thoại liên hệ với H và hẹn trưa ngày 11/4/2019 đi bán dâm. H đồng ý và thoả thuận giá bán dâm là 3.000.000 đồng. Lúc này, P thấy T nhắn tin với H nên cũng nảy sinh ý định mua dâm đã mượn điện thoại của T để trao đổi với H nhờ tìm thêm người bán dâm. H đồng ý và báo với P giá mua dâm là 4.000.000 đồng. Sau đó H dùng điện thoại liên lạc với Lê Thị Kiều L2 rủ đi bán dâm cho khách với giá 4.000.000 đồng và phải trả công cho H 1.000.000 đồng (một triệu đồng), L2 đồng ý. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11/4/2019, T hẹn H đến khách sạn 24 Quán Sứ để mua bán dâm rồi đi cùng P đến trước thuê phòng 201 và 301. H báo cho L2 hẹn đến khách sạn, khoảng 14 giờ cùng ngày, khi H đến nơi thì thấy L2 đang ngồi chờ ở dưới sảnh. Cả hai đi lên phòng 301 gặp T và P, tại đây T đưa cho H số tiền 8.000.000 đồng (trong đó có 3.000.000 đồng là tiền mua bán dâm giữa H và T, 4.000.000 đồng là tiền mua bán dâm giữa L2 và P, ngoài ra T cho thêm H 1.000.000 đồng là tiền đi lại). H cầm và đưa cho L2 số tiền 3.000.000 đồng, sau đó H và T đi xuống phòng 201 còn P và L2 ở lại phòng 301 để thực hiện hành vi mua bán dâm. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/4/2019 thì bị Tổ công tác Công an quận Hoàn Kiếm bắt quả tang như đã nêu trên.

Đỗ Thị H và Lê Thị Kiều L2 khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên và khẳng định đây là lần đầu tiên H môi giới để L2 đi bán dâm. Hai chiếc điện thoại di động bị thu giữ đều sử dụng vào việc trao đổi đi mua bán dâm. Lời khai này phù hợp với lời khai của Phạm Tiến T và Lê Văn P. Công an quận Hoàn Kiếm đã xử phạt hành chính đối với Đỗ Thị H và Lê Thị Kiều L2 về hành vi bán dâm và xử phạt hành chính đối với Phạm Tiến T và Lê Văn P về hành vi mua dâm.

Tại bản cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 20/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Đỗ Thị H về tội "Môi giới mại dâm" theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Thị H mức án từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Không phạt tiền bổ sung; Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi (cùng simcard); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu bạc 16GB (cùng simcard); số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Đỗ Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án.

Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 11/04/2019, Đỗ Thị H đã có hành vi môi giới để Lê Thị Kiều L2 bán dâm cho Lê Văn P và hưởng lợi số tiền 1.000.000 đồng tại phòng 301 khách sạn Louis - số 24 Quán Sứ, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội thì bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Đỗ Thị H đã phạm vào tội “Môi giới mại dâm” được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

t hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Bị cáo biết rõ việc mua bán, môi giới mại dâm bị pháp luật nghiêm cấm và mại dâm là một loại tệ nạn xã hội, nhưng vì hám lợi mà phạm tội. Do đó cần thiết phải dành cho bị cáo một hình phạt tù nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015, ngoài ra không có tình tiết tăng nặng nào theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Căn cứ nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, xét bị cáo hiện có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng nên không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về các biện pháp tư pháp: Xét thấy, đối với số tiền 5.000.000 đồng thu giữ của Đỗ Thị H và số tiền 3.000.000 đồng thu giữ của Lê Thị Kiều L2 là tiền bán dâm, tiền công môi giới, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Toà tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 02 điện thoại gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu bạc 16GB đã cũ thu giữ của Đỗ Thị H và Lê Thị Kiều L2 đều là tài sản dùng vào việc trái pháp luật nên cũng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị H (Tên gọi khác: L1) phạm tội “Môi giới mại dâm”;

2 . Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị H(Tên gọi khác: L1) 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 (Mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Đỗ Thị H (Tên gọi khác L1) cho Ủy ban nhân dân Thị trấn G, huyện G, tỉnh H để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

3. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

*Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

- Số tiền 8.000.000 (Tám triệu) đồng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu ghi, số IMEI: 354392068955163 ở bên trong máy. Tại thời điểm bàn giao máy không mở được để kiểm tra;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu bạc, số IMEI: 353284076155715 ở bên trong máy. Tại thời điểm bàn giao máy không mở được để kiểm tra;

*Tịch thu hủy bỏ 02 sim điện thoại đã cũ;

(Máy và sim điện thoại đã cũ, chất lượng hiện trạng không rõ, không mở được máy để kiểm tra) Số tiền và vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm và tài khoản của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 26/6/2019 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 27/6/2019.

5 . Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Thị H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Kiều L2, anh Lê Văn P, anh Phạm Tiến T vắng mặt có quyền kháng cáo phần quyết định có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại chính quyền nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

455
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 198/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:198/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về