TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 198/2017/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2017 VỀ XIN LY HÔN
Trong ngày 07 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 478/2017/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2017 về việc “Xin lyhôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 223/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số: 100/2017/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị V - sinh năm 1996;
Địa chỉ: Khu T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An; Chỗ ở hiện nay: Ấp Q, xã K, huyện H, tỉnh Long An;
Bị đơn: Anh T - sinh năm 1994;
Địa chỉ: Khu T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An;
( Chị V có mặt; Anh T vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 23/5/2017 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa chị V trình bày: Chị và anh T chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 6 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả nên ly thân nhau từ cuối tháng 9 năm 2016 cho đến nay. Nay chị V xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn anh T.
Về con chung: Có 01 con chung tên S, sinh ngày 06/01/2015 hiện nay anh T đang nuôi. Khi ly hôn, chị V đồng ý giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi và chị V không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với anh T, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh T không đến Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa làm việc hoặc phản hồi ý kiến của anh T về việc giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả thẩm tra, xét hỏi tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.
[2] Về tố tụng: Anh T vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 BLTTDS năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh T chung sống với nhau vào năm 2014 có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn N, huyện H, tỉnh Long An nên quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh T là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị V và anh T chung sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống vợ chồng thường xuyên cải vã dù hai bên đã cố gắng hàn gắn kéo dài cuộc sống hôn nhân nhưng không được nên chị V và anh T đã ly thân từ tháng 9 năm 2016 cho đến nay. Tại phiên tòa, chị V tha thiết xin được ly hôn với anh T. Ngược lại, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án dự hòa giải đoàn tụ cũng như không tham dự phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn gia đình giữa chị V và anh T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cuộc sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, chi V yêu cầu được xin ly hôn đối với anh T là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị V khai, có 01 con chung tên S, sinh ngày 06/01/2015 hiện nay anh T đang nuôi. Khi ly hôn, chị V đồng ý giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi và chị V không cấp dưỡng nuôi con. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[5] Về tài sản chung: Chị V khai, không có nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[6] Về nợ chung: Chị V khai, không có nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[7] Về án phí: Chị V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị V xin ly hôn với anh T.
Về quan hệ hôn nhân: Chị V được ly hôn với anh T.
Về con chung: Anh T được quyền tiếp tục nuôi con chung tên S, sinh ngày 06/01/2015 hiện nay anh T đang nuôi. Chị V không phải cấp dưỡng nuôi con. Vì quyền lợi của trẻ, bên không trực tiếp nuôi con được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết, anh T có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và chị V có quyền xin thay đổi quyền nuôi con.
Về án phí: Chị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân, gia đình sung sơ thẩm công quỹ Nhà nước, được khấu trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị V đã nộp theo biên lai số 0535 ngày 23/5/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Chị V đã nộp xong.
Án này là sơ thẩm, chị V có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh T vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ./
Bản án 198/2017/HNGĐ-ST ngày 07/09/2017 về xin ly hôn
Số hiệu: | 198/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về