Bản án 197/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 197/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 25 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 614/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 08 năm 2018 về việc tranh chấp “Xin ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Như H, sinh năm 1997 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn:  Anh Lê Công B, sinh năm 1997 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 5, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 20/8/2018, biên bản hòa giải ngày 10/9/2018 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Như H trình bày:

Chị với anh Lê Công B xác lập quan hệ vợ chồng vào giữa năm 2015, hôn nhân xây dựng trên cơ sở quen biết, không có đăng ký kết hôn; sau khi cưới chị với anh B sống ở nhà mẹ ruột của chị cho đến ngày vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân vào đầu năm 2016. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh B không quan tâm cuộc sống vợ con, nên thường xuyên cãi vã, cuộc sống chung không hạnh phúc. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 27/01/2016, hiện nay đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Lê Công B có đơn xin vắng mặt nhưng tại tờ tự khai ngày 07/9/2018 và tại biên bản hòa giải ngày 10/9/2018 anh B trình bày:

Anh Thống nhất lời trình bày của chị Nguyễn Thị Như H về quan hệ hôn nhân và con cái. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, chị H thường xuyên bỏ về nhà mẹ ruột mà không xin ý kiến của anh và có thời gian chị H dẫn con bỏ nhà ra đi mà không có lí do, một thời gian sau mới trở về. Anh chị đã sống ly thân khoảng giữa năm 2017 cho đến nay.

Nay anh cũng đồng ý ly hôn với chị H.

Đối với việc chị H yêu cầu được nuôi con khi ly hôn anh đồng ý, riêng việc chị H yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng thì anh không đồng ý, vì anh còn là sinh viên chưa có công việc ổn định nên anh không có khả năng cấp dưỡng, sau này khi anh ra trường có việc làm ổn định anh sẽ cấp dưỡng cho con chung phù hợp với mức lương mà anh làm được.

Tại buổi hòa giải và lời trình bày trước tòa chị H rút lại yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Lê Công B có đơn xin vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh B xác lập quan hệ vợ chồng vào giữa năm 2015, hôn nhân của anh chị được xây dựng trên cơ sở quen biết, không có đăng ký kết hôn. Chị và anh B sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh B không quan tâm cuộc sống vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống chung không hạnh phúc, sống ly thân từ đầu năm 2016 cho đến nay. Nay anh B cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Xét thấy, chị H với anh B chung sống như vợ chồng từ năm 2015 cho đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện để đăng ký kết hôn theo đúng quy định nhưng không thực hiện là vi phạm vào Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình thì chị H và anh B không được công nhận là vợ chồng.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 27/01/2016 chị H với anh B thỏa thuận để chị H tiếp tục nuôi con là phù hợp thực tế và qui định của pháp luật nên ghi nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do chị H và anh B đều khai không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 8, 9, khoản 1 Điều 14, 51, khoản 2 Điều 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử :

[1] Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị Như H và anh Lê Công B là vợ chồng.

[2] Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 27/01/2016, hiện đang sống với chị H, tiếp tục giao cháu H cho chị H nuôi dưỡng.

Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Như H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng), chị H đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 09168 ngày 22/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang nên không phải nộp tiếp.

[5] Quyền kháng cáo: Chị H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án; Anh B được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 197/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:197/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về