TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 196/2021/HS-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 169/2021/TLST- HS ngày 23 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 03 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Ngô Quang H, sinh năm 1976 (tên gọi khác: Không), tại thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 87/7, Khu phố 5B, phường T, thành phố B, tỉnh Đ;
Nơi ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: Lớp 05/12; Họ tên cha: Ngô Quang B, sinh năm 1932 (Đã chết); Họ tên mẹ: Lê Thị N, sinh năm 1932 (Đã chết); Gia đình bị cáo có 07 anh chị em cùng mẹ khác cha, bị cáo là con út trong gia đình; Có vợ: Vũ Thị Thúy A, sinh năm 1976, có 01 con sinh năm 1997; Tiền án: Ngày 27/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 (Sáu) tháng tù giam, về tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa thực hiện nghĩa vụ đóng án phí; Ngày 19/9/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (Tám) tháng tù giam, về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/02/2019; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt ngày 11/01/2021, theo Lệnh số 140 ngày 11/01/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Anh P, sinh năm 1982 (tên gọi khác: Không), tại Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: 27/2, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; Nơi ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn V, sinh năm 1950; Họ tên mẹ: Trần Thị Lệ X, sinh năm 1955; Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Có vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1987, có 01 con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 04/12/2020, theo Lệnh số 1580 ngày 12/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
1. Chị Dương Thị C, sinh năm 1985 – Vắng mặt.
Địa chỉ: 7/12, tổ 9, khu phố 8, phường L, thành phố B, tỉnh Đ.
2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1991 – Vắng mặt.
Địa chỉ: 51/59, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Ngô Quang H là đối tượng có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Để có tiền tiêu xài, bị cáo H đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Cụ thể như sau: Lần thứ nhất:
Vào khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 04 tháng 12 năm 2020, bị cáo Nguyễn Anh P điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 63B1-6976 đến nhà thờ Thánh Tâm, huyện Thống Nhất gặp bị cáo Ngô Quang H, tại đây bị cáo P và H rủ nhau đi mua heroin về sử dụng. Bị cáo P điều khiển xe môtô của mình chở bị cáo H ngồi phía sau đi đến khu vực khu phố 8, phường L để mua heroin. Khi đi ngang qua cửa hàng vật liệu xây dựng số 7/12, tổ 9, khu phố 8, phường L, thành phố B của chị Dương Thị C, sinh năm 1985, bị cáo H thấy trước cửa hàng có dựng 01 xe đạp điện hiệu Azibike 48, số sườn: BMX26842017 màu đỏ đen, không có ai trông coi nên bị cáo nói bị cáo P dừng xe lại để trộm cắp chiếc xe đạp điện trên bán lấy tiền tiêu xài, bị cáo P đồng ý.
Thực hiện ý định trên, bị cáo P dừng xe trước cửa hàng của chị C, bị cáo H đi bộ vào dắt xe đạp điện ra, do xe không có chìa khóa nên bị cáo P ngồi lên xe đạp điện, còn bị cáo H điều khiển xe môtô 63B1-6976 và dùng chân đẩy xe đạp điện do bị cáo P điều khiển để tẩu thoát.
Lúc này, anh Bùi Văn D, sinh năm 1986, ngụ tại: Tổ 6, khu phố 8, phường L, thành phố B đang điều khiển xe môtô chở anh Trần Thái H, sinh năm 1986, ngụ tại: Tổ 6, khu phố 8, phường L, thành phố B là bảo vệ dân phố khu phố 8, phường L phát hiện thấy bị cáo P và H đang có hành vi trộm cắp xe đạp điện của chị C nên đi theo sau. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc phường Tân Hòa thì anh D và anh H đuổi kịp bị cáo P và H. Anh D và anh H ép xe bắt giữ được bị cáo P và thu giữ được xe đạp điện đưa về Công an phường Long Bình làm việc. Còn bị cáo H điều khiển xe môtô biển số 63B1-6976 chạy về hướng Công viên 30/4 thuộc phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa. Tại đây, bị cáo H đã bán xe môtô biển số 63B1-6976 cho một người đàn ông không rõ lai lịch được 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), số tiền này bị cáo H đã tiêu xài cá nhân hết.
Vật chứng của vụ án:
- 01 chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike 48R, số sườn: BMX26842017 màu đỏ đen, là tài sản của chị Dương Thị C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chị C;
- 01 chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 63B1-6976, bị cáo H và P sử dụng vào việc phạm tội. Bị cáo H khai trong quá trình bỏ trốn đã bán cho một người không rõ nhân thân, lai lịch nên không thu hồi được;
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 543/TCKH-HĐĐGTS ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike 48R, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 50%, trị giá 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng)”.
Về dân sự: Bị hại chị Dương Thị C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.
Lần thứ hai:
Khoảng 15 giờ, ngày 30 tháng 12 năm 2020, bị cáo Ngô Quang H cùng với Nguyễn Duy P1, sinh năm 1983, ngụ tại: 75/2, khu phố 8A, phường T, thành phố B đang ngồi chơi tại khu vực ngã ba phát triển thuộc phường T, thành phố B thì gặp một người tên H1 (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe môtô biển số 53S7 – 7186. Tại đây, P1 mượn xe môtô biển số 53S7 – 7186 của H1 để đi công việc thì H1 đồng ý. Lúc này P1 điều khiển xe môtô chở bị cáo H ngồi sau đi đến khu vực phường Hố Nai, P1 rủ bị cáo H đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài thì bị cáo H đồng ý. Khi đi đến trước nhà số 51/59, khu phố 8, phường H, thành phố B của anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1991 thì P1 phát hiện trước cửa nhà anh K có để hai cánh cửa bằng sắt màu xanh, đã cũ, mỗ cánh có kích thước lm x 2m không có người trông coi nên cùng bàn bạc để trộm cắp. Bị cáo H dừng xe đứng ngoài cảnh giới còn P1 lén lút vào trong lần lượt khiêng hai cánh cửa sắt ra đặt lên yên xe mô tô thì bị anh K phát hiện, tri hô cùng người dân bắt giữ bị cáo H và P1 giao Công an phường Hố Nai lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng của vụ án:
- 02 cánh cửa bằng sắt màu xanh, mỗi cánh có kích thước lm x 2m, đã qua sử dụng, là tài sản của anh Nguyễn Văn K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh K;
- 01 chiếc xe môtô biển số 53S7-7186 màu đen, số máy: HW- 150FMG00050954, thu giữ của bị cáo H, H khai xe môtô này do bị cáo mượn của đối tượng tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch). Qua tra cứu biển số xe, số máy, không tìm thấy dữ liệu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục tạm giữ, xác minh làm rõ để xử lý sau;
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 601/TCKH-HĐĐGTS ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: “02 cánh cửa sắt không rõ nhãn hiệu, nguồn gốc, xuất sứ, đã cũ, rỉ sét, có trọng lượng 50kg, trị giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng)”.
Về dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Văn K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.
Tại bản cáo trạng số: 206/CT-VKSBH ngày 22/3/2021, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố các bị cáo Ngô Quang H, Nguyễn Anh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố.
Đối với Ngô Quang H: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo H mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam.
Đối với Nguyễn Anh P: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo P mức án từ 08 tháng đến 12 tháng tù giam.
Các bị cáo không phát biểu bào chữa cho mình và cũng không yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu khác ngoài những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ của vụ án ra xem xét tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, chị Dương Thị C, anh Nguyễn Văn K vắng mặt. Căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị C và anh K.
[3] Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, bị cáo H đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Nguyễn Anh P và Nguyễn Duy P1 như sau:
Ngày 04/12/2020, bị cáo H và bị cáo P thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe đạp hiệu Azibike 48, số sườn màu đỏ đen có trị giá 2.700.000đ (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng) của chị Dương Thị C;
Ngày 30/12/2020, bị cáo H và Nguyễn Duy P1 thực hiện hành vi trộm cắp 02 cánh cửa bằng sắt màu xanh, đã qua sử dụng có trị giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Văn K.
Trong đó, bị cáo H tham gia trộm cắp với số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm nghìn đồng), số tiền bị cáo P tham gia trộm cắp là 2.700.000đ (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng).
[4] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai nhân chứng cùng các chứng cứ khác được thể hiện tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung mà bản Cáo trạng đã viện dẫn và truy tố, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[5] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình cho quần chúng nhân dân nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:
Bị cáo H thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản và có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo H không lấy đó làm bài học cho mình để tu sửa bản thân làm công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần và tái phạm được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo P không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H và bị cáo P đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo P được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị Dương Thị C và anh Nguyễn Văn K đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Đối với đối tượng Nguyễn Duy P1 đã thực hiện hành vi trộm cắp 02 cánh cửa bằng sắt màu xanh, đã qua sử dụng có trị giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) cùng với bị cáo Ngô Quang H. P1 chưa có tiền án, tiền sự và tài sản trộm cắp có giá trị 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) nên chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với P1. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là phù hợp.
[10] Về xử lý vật chứng:
- 01 chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike 48R, số sườn: BMX26842017 màu đỏ đen, là tài sản của chị Dương Thị C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chị C là phù hợp;
- 01 chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 63B1-6976, bị cáo H và P sử dụng vào việc phạm tội. Bị cáo H khai trong quá trình bỏ trốn đã bán cho một người không rõ nhân thân, lai lịch nên không thu hồi được;
- 02 cánh cửa bằng sắt màu xanh, mỗi cánh có kích thước lm x 2m, đã qua sử dụng, là tài sản của anh Nguyễn Văn K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh K là phù hợp;
- 01 chiếc xe môtô biển số 53S7-7186 màu đen, số máy: HW- 150FMG00050954, bị cáo H khai xe môtô này do bị cáo mượn của đối tượng tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch). Qua tra cứu biển số xe, số máy, không tìm thấy dữ liệu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục tạm giữ, xác minh làm rõ để xử lý sau.
[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu số tiền 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Ngô Quang H;
- Căn cứ điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Anh P;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Quang H, Nguyễn Anh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Ngô Quang H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 11/01/2021.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh P 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/12/2020.
3. Về án phí: Các bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Các bị cáo Ngô Quang H, Nguyễn Anh P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Dương Thị C, anh Nguyễn Văn K vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án 196/2021/HS-ST ngày 09/04/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 196/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về