TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 196/2019/HSST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 11/07/2019, tại Hội trường xét xử số 1 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 160/2019/HSST ngày 11/04/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2019/QĐXX ST-HS ngày 27/06/2019 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Đức Ch, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh ngày 06 tháng 10 năm 1966, tại tỉnh Quảng Ninh;
Nơi ĐKHKTT: Ngõ 100, đường P, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Chỗ ở: Tổ 77B, khu 5B, phường B, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ Văn hóa: Lớp 10/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn S, sinh năm 1929 (đã chết) Con bà: Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1936;
Có vợ là Trần Thị H, sinh năm 1974 (đã ly hôn); Chưa có con. Tiền án tiền sự: Chưa;
Bị bắt khẩn cấp ngày 18/12/2018, hiện đang tạm giam.
Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Đình Tr, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh ngày 31 tháng 07 năm 1990, tại tỉnh Quảng Ninh;
Nơi cư trú: Tổ 1, khu 8, phường H1, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Trình độ Văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân Công ty Than H; Con ông: Nguyễn Đình V1, sinh năm 1963;
Con bà: Trịnh Thị V2, sinh năm 1967; Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Chưa;
Nhân thân: Năm 2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 15/10/2014 đã chấp hành xong hình phạt tù và các phần khác của bản án.
Bị bắt khẩn cấp ngày 18/12/2018, hiện đang tạm giam.
Có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Phạm Thái H, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Sinh ngày 30 tháng 04 năm 1986, tại tỉnh Quảng Ninh;
Nơi cư trú: Tổ 6, khu 2, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Trình độ Văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Phạm Văn H2, sinh năm 1959 (đã chết) Con bà: Trần Thị T, sinh năm 1967 (đã chết);
Chưa có vợ, con. Tiền án tiền sự: Chưa;
Bị bắt quả tang ngày 17/12/2018, hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
- Những người làm chứng:
1/ Chị: Trần Thị H3 (tên gọi khác: Th), sinh năm 1990
Địa chỉ: Tổ 42, khu 4A, phường C, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
2/ Chị: Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1996
Địa chỉ: Thôn Khe Khoai, xã Th, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
3/ Anh: Đỗ Đức Th2, sinh năm 1965
Địa chỉ: Tổ 7, khu 8, phường C, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Chị H3, chị Ng, anh Th2 vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.
4/ Chị: Trần Thị H4, sinh năm 1974
Địa chỉ: Tổ 7, khu 5, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2018 đến ngày 17/12/2018, Nguyễn Đức Ch đã nhiều lần bán ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Đình Tr, ngoài ra còn bán ma túy cho Nguyễn Thị Ng và Trần Thị H3. Sau khi mua được ma túy Methamphetamine của Ch, Tr đã hai lần bán lại cho Phạm Thái H vào ngày 15 và 17 tháng 12 năm 2018. Hồi 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2018, tại khu vực đầu ngõ 8, phố B thuộc tổ 6, khu 2, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Thái H có hành vi bán tàng trữ trái phép 0,363 gam Methamphetamine, mục đích để bán cho Đinh Chính Kh thì bị bắt quả tang.
- Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Đức Ch khai nhận:
Nguồn gốc số ma túy đá bị cáo sử dụng cho bản thân và bán cho Tr, Ng và H3 (Th) là do bị cáo mua của một người tên là T2 (không biết lai lịch địa chỉ), bị cáo biết T2 qua bạn bè. Bị cáo bắt đầu mua ma túy của T2 từ khoảng tháng 5/2018. Trung bình khoảng nửa tháng bị cáo mua ma túy đá của T2 một lần, mỗi lần mua 05 gam ma túy đá giá 3.000.000 đồng. Khi cần mua ma túy của T2, bị cáo gọi điện cho T2 đặt mua. T2 sẽ đóng gói ma túy thành hộp bưu phẩm và gửi qua xe khách L – M. Bị cáo đón lấy hàng ở khu vực cầu K - Hạ Long. Bị cáo nhận hàng rồi đưa tiền cho xe khách để trả cho T2. Lần gần nhất bị cáo mua ma túy của T2 là tháng 12/2019, bị cáo mua của T2 05 gam ma túy đá giá 3.000.000 đồng, tiền mua ma túy do bị cáo lao động (làm thợ may thuê) mà có.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức Ch khai, bị cáo thỉnh thoảng có sử dụng ma túy đá, thời gian trước tháng 12/2018 bị cáo thường được bạn bè xã hội cho ma túy đá để sử dụng cho bản thân. Đầu tháng 12/2018, bị cáo đến khu vực Đ – Hải Phòng mua được của một người tên T2 (không rõ lai lịch địa chỉ) 3.000.000 đồng ma túy đá loại Methamphetamine. Số ma túy này, bị cáo sử dụng cho bản thân một ít và có bán cho Nguyễn Đình Tr bốn lần, một lần bán cho chị Ng, một lần bán cho chị H3 (Th). Khi Tr, Ng, H3 có nhu cầu mua ma túy thì họ điện thoại hoặc nhắn tin qua Zalo cho bị cáo nói số lượng ma túy cần mua, sau đó bị cáo hẹn họ đến nhà bị cáo (có thể trong nhà, ngoài ngõ) để bán ma túy cho họ. Cụ thể bị cáo đã bán ma túy cho Nguyễn Đình Tr bốn lần như sau:
Lần thứ nhất: Tối ngày 11/12/2018, Tr có mua một hộp Sầu Riêng mang lên phòng khách nhà bị cáo. Bị cáo hỏi Tr mua Sầu Riêng hết bao nhiêu tiền, Tr nói hết 220.000 đồng, nhưng Tr không lấy tiền về mà bảo bị cáo cho Tr một ít ma túy đá. Bị cáo đồng ý và lấy 01 (một) túi ma túy đá để trong tủ nhựa ở góc phòng khách đưa cho Tr, lúc đó trong phòng khách còn có H4 là vợ bị cáo biết.
Lần thứ hai: Trưa ngày 12/12/2018, Tr điện thoại cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, bị cáo đồng ý. Tại phòng khách nhà bị cáo, Tr đưa cho bị cáo 300.000 đồng, bị cáo lấy 01 túi ma túy đá trong tủ nhựa ở góc phòng khách đưa cho Tr. Tr cầm túi ma túy đá đó đi về.
Lần thứ ba: Trưa ngày 15/12/2018, Tr điện thoại cho bị cáo hỏi mua 1,5 gam ma túy đá. Tr đến cổng nhà bị cáo, đưa cho bị cáo 1.500.000 đồng. Bị cáo đưa cho Tr 1,5 gam ma túy đá. Tr nhận gói ma túy, ở chơi một lúc rồi về.
Lần thứ tư: Trưa ngày 17/12/2018, Tr điện thoại hỏi mua của bị cáo 500.000 đồng ma túy đá, bị cáo đồng ý. Tr đến nhà bị cáo, bị cáo bán cho Tr một gói ma túy đá với giá 500.000 đồng.
Bị cáo còn bán ma túy đá cho Th (tên gọi khác là H3) và Ng – ở trọ tại khu vực V – phường C như sau:
Vào khoảng thời gian tháng 12/2018 (không nhớ ngày), Ng điện và hỏi mua của bị cáo 200.000 đồng ma túy đá, bị cáo đồng ý. Nga đến nhà bị cáo, bị cáo bán cho Ng một túi ma túy đá giá 200.000 đồng. Vào tối ngày 14/12/2008 Th gọi điện cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá của bị cáo, bị cáo đồng ý. Một lúc sau Th đến nhà bị cáo. Bị cáo bán cho Th 01 (một) túi ma túy đá với giá 300.000 đồng.
Mục đích bị cáo bán ma túy cho Tr, Ng, H3 (Th) để có lời ma túy sử dụng cho bản thân.
Ngày 18/12/2018, khi Công an khám xét nhà bị cáo có thu giữ của bị cáo 05 túi nilon bên trong có dính chất tinh thể màu trắng, đây là những túi ma túy đá bị cáo đã sử dụng hết, 03 chiếc nỏ thủy tinh bị cáo được bạn bè cho để sử dụng ma túy, 01 chứng minh nhân dân mang tên bị cáo, số tiền 56.200.000 đồng là tiền do bị cáo tích lũy do làm thợ may thuê mà có, số tiền này bị cáo để dành để đi làm răng, 01 chiếc điện thoại Ipone 6 màu đen bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy với anh Tr, chị Ng, chị Th.
Việc bị cáo bán ma túy tại nhà vợ bị cáo không biết, bị cáo đề nghị được trả lại số tiền 56.200.000 đồng cho bị cáo.
Bị cáo có bố đẻ bị cáo (ông Nguyễn Văn S) là thương binh, là anh hùng lực lượng vũ trang, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương hạng nhất và Bảng vàng ghi công do có đóng góp thành tích trong công cuộc chống Mỹ cứu nước. Mẹ bị cáo (bà Nguyễn Thị Ph) được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, mong được xử mức án thấp để sớm được về với gia đình và xã hội, - Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình Tr khai nhận:
Bị cáo quen biết Phạm Thái H nhà ở đầu ngõ 8 phố B, thành phố Hạ Long. Khoảng cách 02 tháng trước khi bị cáo bị bắt có nghe H hỏi mua ma túy đá. Qua quan hệ xã hội, bị cáo biết anh Ch nhà ở đối diện Cung Văn hóa thiếu nhi có ma túy đá bán nên bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy đá của anh Ch để bán lại cho H kiếm lời. Khi anh H có nhu cầu mua ma túy thì gọi điện cho bị cáo vào số điện thoại 0374336898 của bị cáo đặt số lượng ma túy cần mua, sau đó ra chỗ cầu thang sắt ở khu B gần đường 25/4 đưa cho bị cáo số tiền mua ma túy. Bị cáo cầm số tiền này xong điện thoại vào số 0354948936 của anh Ch hỏi mua ma túy theo số lượng H đặt mua. Khi mua được ma túy của Ch, bị cáo có thể bớt lại một phần ma túy để sử dụng hoặc không bớt, phần còn lại, bị cáo mang đến chỗ cầu thang sắt ở phố B đưa cho anh H. Bị cáo đã nhiều lần mua ma túy của anh Ch. Bị cáo nhớ hai lần gần nhất bán ma túy cho anh H. Cụ thể:
Lần thứ nhất: Vào trưa ngày 17/12/2018, anh H điện cho bị cáo hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, bị cáo đến chân cầu thang sắt phố B gặp H lấy 500.000 đồng. Sau đó bị cáo điện cho anh Ch hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, anh Ch đồng ý bán và hẹn bị cáo đến đầu ngõ nhà anh Ch để nhận hàng. Bị cáo đến điểm hẹn, anh Ch đưa cho bị cáo một túi ma túy đá, bị cáo đưa cho anh Ch 500.000 đồng, sau đó bị cáo cầm túi ma túy đá đó đưa về cho H tại chân cầu thang sắt. Lần này bị cáo không sẻn lại ma túy, cũng không lấy lãi tiền mua bán ma túy với H.
Lần thứ hai: Vào khoảng trưa ngày 15/12/2018, anh H đặt mua 1,5 gam ma túy đá. Bị cáo báo cho anh H giá 1.800.000 đồng, anh H nhất trí, bị cáo ra chỗ cầu thang sắt ở phố B lấy 1.800.000 đồng anh H đưa cho, sau đó điện cho anh Ch hẹn mua 1,5 gam ma túy đá giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy đá của anh Ch, bị cáo mang đến chỗ cầu thang sắt B đưa cho anh H. Lần này bị cáo lấy lãi của H 300.000 đồng.
Ngoài việc bán ma túy cho anh H, bị cáo còn có lần mua hộ anh Th3 người Quảng Yên 300.000 đồng ma túy đá vào trưa ngày 12/12/2018. Số ma túy đá mua cho anh Th3 bị cáo cũng mua của anh Ch. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cùng Th3 về nhà bị cáo cùng nhau sử dụng.
Có một lần vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 11/12/2018, anh Ch gọi điện cho bị cáo nhờ mua hộ sầu riêng. Bị cáo mua một hộp sầu riêng giá 220.000 đồng mang đến nhà anh Ch. Bị cáo bảo anh Ch, tiền mua sầu riêng hết 220.000 đồng, để lại cho bị cáo một ít ma túy để sử dụng. Lúc đó có chị H4 vợ anh Ch ở đó nghe thấy, chị H4 đứng lên đi vào phòng bếp xong thì anh Ch lấy ma túy đưa cho bị cáo.
Biên bản bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp hồi 09 giờ ngày 18/12/2018 đối với Nguyễn Đình Tr, thu giữ của Trung 01 điện thoại Mobistar số thuê bao 0374336898 viền mặt trước, ốp mặt sau đã cũ. Điện thoại này bị cáo đã sử dụng vào việc liên lạc với H và Ch để mua ma túy.
- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thái H khai nhận:
Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2018 bị cáo bị Công an bắt quả tang, thu giữ ma túy vì có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để bán cho khách mua kiếm lời tại khu vực đầu ngõ 8 B, thuộc tổ 6 khu 2, phường H2, thành phố Hạ Long.
Số ma túy Công an thu giữ của bị cáo là do khoảng 12 giờ 30 phút ngày 17/12/2018, bị cáo đã mua được của anh Tr với giá 500.000 đồng tại khu vực cầu thang sắt phố B. Bị cáo đã bớt lại một ít sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày 17/12/2018 có anh Kh (còn gọi là Kh S) gọi điện cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. Bị cáo đồng ý bán và hẹn anh Kh đến khu vực cầu thang sắt phố B để giao dịch. Sau đó bị cáo cầm số ma túy mua của Tr đã bớt lại một phần để sử sụng, mang ra chỗ cầu thang sắt ở phố B để bán lại cho Kh, nhưng chưa kịp bán thì bị Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ.
Bị cáo đã nhiều lần mua ma túy đá của anh Tr, lần gần nhất là vào trưa ngày 15/12/2018 bị cáo gọi điện hỏi mua của anh Tr 1,5 gam ma túy đá, Tr đồng ý bán giá 1.800.000 đồng, sau khi bị cáo đưa tiền cho Tr thì khoảng 30 phút sau Tr quay lại đưa cho bị cáo một túi ma túy đá. Số ma túy này bị cáo đem về vừa sử dụng, vừa bán cho khách kiếm lời. Ngoài anh Tr, bị cáo không mua ma túy của ai khác.
Bị cáo nhiều lần bán ma túy cho nhiều người nhưng không nhớ. Chỉ nhớ lần gần nhất bán cho anh Kh vào tối ngày 16/12/2018 một túi ma túy đá giá 300.000 đồng và vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15/12/2018 bán cho anh T2 (không rõ lai lịch địa chỉ) một túi ma túy đá giá 300.000 đồng.
Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang (BL 65-66) và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 67-68) thể hiện nội dung: Hồi 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2018, tại khu vực đầu ngõ 8 B thuộc tổ 6, khu 2, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, tổ công tác thuộc phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Phòng phòng chống ma túy – Cục nghiệp vụ và pháp luật Bộ Tư lệnh cảnh sát biển phát hiện kiểm tra bắt quả tang Phạm Thái H, sinh năm 1986, trú tại tổ 6 khu 2 phường H2, thành phố Hạ Long có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người nhằm mục đích bán kiếm lời. Thu giữ của H 01 túi nilon kẹp dính một đầu, kích thước (1x1,5)cm, bên trong túi nilon đựng chất tinh thể màu trắng tại túi quần bên phải H đang mặc. Ngoài ra còn thu của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIGI màu đen đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng đã cũ. Hòa khai chất tinh thể trong túi nilon Công an thu trong túi quần của H là chất ma túy đá, H cất giấu trong người nhằm mục đích để bán cho khách nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ. Số vật chứng thu của H đã được niêm phong vào phong bì ghi “Vật chứng thu giữ của Phạm Thái H ngày 17/12/2018”. Việc bắt quả tang Nguyễn Thái H có người làm chứng là anh Đỗ Đức Th2.
Tại bản Kết luận giám định số 33/GĐMT ngày 19/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh (BL101), kết luận:
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng thu giữ của Phạm Thái H ngày 17/12/2018 là ma túy loại Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,363 gam (không phẩy ba sáu ba gam). Hoàn lại đối tượng giám định 0,31 gam mẫu vật trong niêm phong số 33/GĐMT.
Người làm chứng, anh Đỗ Đức Th2 vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra có lời khai: Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2018, tại đầu ngõ 8 B phường H2, anh Th2 được chứng kiến việc Công an kiểm tra bắt giữ một người thanh niên khai tên là Phạm Thái H, sinh năm 1986, trú tại: Tổ 6, khu 2, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Công an thu trong túi quần bên phải anh H đang mặc 01 (một) 01 túi nilon kẹp dính một đầu, kích thước khoảng (1x1,5)cm, bên trong túi nilon đựng chất tỉnh thể màu trắng, anh Hòa khai đó là ma túy đá của anh H cất giấu trong người mục đích để bán kiếm lời. (BL249 -253).
Hồi 15 giờ 15 phút ngày 15/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Nguyễn Đình Tr tại số nhà 3B, tầng 3, chung cư vàng, phường H2, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, không thu giữ được gì (BL 81). Công an đã tiến hành Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Đình Tr (BL 90 – 97). Qua làm việc với Công an phường H2, xác nhận: Trung sống với mẹ là bà Trịnh Thị V2 tại A3, lô B, chung cư vàng, thuộc tổ 12, khu 3, phường H2, thành phố Hạ Long, quá trình sinh sống tại địa phương chưa có sai phạm gì. Qua việc nhận dạng người qua ảnh ngày 18/12/2018, Nguyễn Đình Tr nhận ra người trong ảnh số 2 đúng là Nguyễn Thái H là người đã nhiều lần mua ma túy của Trung tại khu vực cầu thang sắt lối lên phố B. Lần gần nhất Tr bán ma túy cho H vào trưa ngày 17/12/2018 Tr bán cho anh H một túi ma túy đá giá 500.000 đồng (BL 110-112). Qua việc nhận dạng qua ảnh ngày 09/03/2019, Phạm Thái H nhận đúng người trong ảnh số 03 là Nguyễn Đình Tr, là người đã nhiều lần bán ma túy cho Phạm Thái H (BL số 120 – 123).
Theo lời khai của Nguyễn Đình Tr, ngày 18/12/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Nguyễn Đức Ch tại tổ 77B, khu 5B, phường B, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, thu giữ:
02 (hai) túi nilon màu trắng có khóa kẹp ở một đầu, một túi có kích thước khoảng (6 x 10) cm, một túi có kích thước khoảng (7 x 11) cm, bên trong có dính chất tinh thể màu trắng, 03 (ba) ống thủy tinh dài khoảng 15 cm, một đầu uốn cong và có bầu tròn, 56.200.000 đồng (năm sáu triệu hai trăm nghìn đồng) thu giữ trong tủ nhựa trong góc phòng khách; 03 (ba) túi nilon màu trắng có khóa kẹp ở một đầu, một túi có kích thước khoảng (4 x 6) cm, hai túi có kích thước khoảng (5 x 8) cm, bên trong có dính chất tinh thể màu trắng, thu giữ trong thùng nhựa để ở nhà xe. 01 (một) giấy CMND số 141196133 mang tên Nguyễn Đức Ch.
05 túi nilon bên trong có dính chất tinh thể màu trắng được cho vào phong bì niêm phong bì thư ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Đức Ch ngày 18/12/2018”. (BL74-76).
Công an đã tiến hành Lệnh bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Đức Ch (BL 82–87).
Tại kết luận giám định số 37/GĐMT ngày 21/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đối với 05 mẫu vật trong 05 túi nilon có dính chất tinh thể màu trắng thu của Nguyễn Đức Ch (ký hiệu từ M1 đến M5) kết luận: Mẫu vật từ M1 – M5 gửi giám định mà ma túy loại Methamphetamine dạng vết, không xác định được khối lượng, không hoàn lại mẫu vật (BL107).
Qua việc nhận dạng qua ảnh ngày 09/03/2019, Nguyễn Đức Ch nhận đúng người trong ảnh số 03 là Nguyễn Đình Tr, là người đã nhiều lần mua ma túy tại nhà Ch (BL số 120, 124 – 125).
Qua việc nhận dạng qua ảnh ngày 18/12/2018, Nguyễn Đình Tr nhận đúng người trong ảnh số 02 là Nguyễn Đức Ch, là người đã nhiều lần bán ma túy đá cho Nguyễn Đình Tr (BL số 113, 118 – 119).
Đối tượng Trần Thị H3, sinh năm 1990, nơi thường trú tại xóm 5, xã L, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh và đối tượng Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1996, nơi thường trú tại Thôn Kh, xã Th, huyện Hoành Bồ; H3 và Ng thuê trọ tại tổ 42, khu 4A, phường C, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình Công an điều tra vụ án, H3 có lời khai nhiều lần mua ma túy đá của Ch tại nhà Ch, thường mua từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Lần gần nhất H3 mua ma túy đá của Ch là ngày 14/12/2018 H3 mua của Ch 300.000 đồng ma túy đá; Ng có lời khai nhiều lần mua ma túy đã của Ch trong khoảng gần một năm, mua từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng, có lần vào hẳn nhà Ch, có lần Ch hẹn đến cổng nhà Ch. Qua việc nhận dạng qua ảnh ngày 19/12/2018, Trần Thị H3 và Nguyễn Thị Ng nhận đúng người trong ảnh số 02 là Nguyễn Đức Ch, là người đã nhiều lần bán ma túy đá cho H3, cho Ng. Nguyễn Thị Ng và Trần Thị H3 đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (BL số 113–117, 237, 247).
Chị Trần Thị H4, sinh năm 1974, trú tại tổ 7 khu 5 phường H1 thành phố Hạ Long là người sống cùng với Nguyễn Đức Ch như vợ chồng tại tổ 78 khu 5 phường B, thành phố Hạ Long có lời khai: Ngày 18/12/2018 Cơ quan Công an khám xét nơi ở của anh Ch có thu giữ được 05 túi nilon bên trong mỗi túi có dích chất tinh thể màu trắng và bộ sử dụng ma túy đá mà anh Ch thường sử dụng. Toàn bộ vật chứng Công an thu giữ là của anh Ch. Trong quá trình sống cùng anh Ch, chị H4 có lần thấy anh Ch sử dụng ma túy dạng đá bằng cách cho ma túy vào nỏ thủy tinh rồi dùng lửa đốt lên và sử dụng. Chị H4 thấy có một người trông giống người nghiện tên là Tr thường đến gặp gỡ anh Ch, lúc ở trong nhà, lúc ở ngoài cổng, ngoài ngõ có biểu hiện lén lút. Lần gần nhất vào tối ngày 11/12/2018 có trận bóng đá lượt đi giữa Việt Nam và Malaysia, anh Tr có đến nhà anh Ch mang theo một túi sầu riêng anh Tr mua hộ anh Ch giá 200.000 đồng, anh Tr báo anh Ch lấy cho một gói (không nói rõ là gói gì), nhưng nhìn biểu hiện của họ lén lút giống việc mua bán ma túy. Do sợ bị liên lụy và sợ bị các anh Tr, Ch nghĩ sai nên chị H4 đi vào trong phòng ngủ tránh mặt. Ngoài Tr ra, chị H4 còn thấy nhiều người giống người nghiện đến gặp anh Ch, họ và anh Ch cũng có biểu hiện giống như việc mua bán ma túy (BL 254 đến 265) Bản Cáo trạng số 109/CT-VKSHL ngày 09/04/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố các bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Phạm Thái H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử Nguyễn Đức Ch từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 18/12/2018.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử Nguyễn Đình Tr từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 18/12/2018.
- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử Phạm Thái H từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 17/12/2018.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với cả ba bị cáo Ch, Tr, H.
Về vật chứng:
Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,31 gam mẫu vật Methamphetamine trong niêm phong số 33/GĐMT và 03 (ba) nỏ thủy tinh gắn bầu trong;
Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIGI số thuê bao 0906.641.328 thu của H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar số thuê bao 0374.336.898 thu của Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc số thuê bao 0354.948.936 thu của Ch.
Đề nghị buộc các bị cáo phải nộp lại tiền thu lợi bất chính để nộp vào Ngân sách Nhà nước: Nguyễn Đình Tr phải nộp lại 300.000 đồng do Tr bán ma túy cho H; Nguyễn Đức Ch phải nộp lại tổng số tiền thu lợi bất chính là 3.020.000 đồng do Ch bán ma túy cho Tr, Ng và H3 mà có.
Đề nghị trả lại cho bị cáo Phạm Thái H 01 điện thoại di động SAMSUNG màu trắng, số thuê bao 0901.512.659; nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đề nghị trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức Ch số tiền 56.200.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đề nghị trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức Ch 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức Ch.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; Không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành điều tra, truy tố là hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội:
1. Đối với bị cáo Nguyễn Đức Ch: Lời khai nhận tội của bị cáo Ch trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo Nguyễn Đình Tr; phù hợp lời khai của những người làm chứng như chị Trần Thị H3 (Th), chị Nguyễn Thị Ng, chị Trần Thị H4; Phù hợp Biên bản khám xét nơi ở, đồ vật, vật chứng thu giữ được trong quá trình khám xét nơi ở đồ vật của Nguyễn Đức Ch tại tổ 77B, khu 5B, phường B, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 18/12/2018; phù hợp với Kết luận giám định số 37/GĐMT ngày 21/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đối với 05 mẫu vật trong 05 túi nilon có dính chất tinh thể mà u trắng thu của Nguyễn Đức Ch; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Đức Ch có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” từ hai lần trở lên căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
2. Đối với bị cáo Nguyễn Đình Tr: Lời khai nhận tội của bị cáo Tr trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo Nguyễn Đức Ch và bị cáo Phạm Thái H; phù hợp lời khai của người làm chứng là chị Trần Thị H4; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Đình Tr có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” từ hai lần trở lên căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
3. Đối với bị cáo Phạm Thái H: Lời khai nhận tội của bị cáo H trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo Nguyễn Đình Tr; phù hợp lời khai của người làm chứng Đỗ Đức Th2; phù hợp Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Kết luận giám định số 33/GĐMT ngày 19/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng thu giữ của Phạm Thái H ngày 17/12/2018 là ma túy loại Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,363 gam (không phẩy ba sáu ba gam), có đủ cơ sở xác định bị cáo Phạm Thái H có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” căn cứ theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Việc bị cáo Ch khai mua ma tuý của đối tượng T2 bên Hải Phòng; bị cáo Tr khai còn bán ma túy cho đối tượng tên Th2; Bị cáo H khai còn bán ma túy cho nhiều người nhưng không nhớ, bán cho Kh một lần 300.000 đồng ma túy đá vào tối 16/12/2018 và bán ma túy cho đối tượng tên T2 (không rõ địa chỉ) một túi ma túy đá giá 300.000 đồng vào 23 giờ 30 phút ngày 15/12/2018, nhưng quá trình điều tra chưa làm rõ được các đối tượng T2, Th, Kh này nên không có cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự của Tr và H về việc các bị cáo tự khai trong vụ án này.
Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
[3] Tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hướng xử lý bị cáo:
Việc mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời của các bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr và Phạm Thái H đã xâm phạm đến chế độ quản lý, kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, vi phạm pháp luật hình sự, tiếp tay cho tệ nạn mua bán trái phép chất ma túy phát triển, reo rắc tệ nạn xã hội. Ch và H chưa từng có tiền án tiền sự nhưng là người đã trưởng thành, biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, Tr đã từng bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên càng hiểu rõ hơn việc mua bán trái phép chất ma túy là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nhưng các bị cáo vì hám lời không chịu rèn luyện bản thân vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, coi thường pháp luật, vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa tình hình tội phạm chung.
Cả ba bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr và Phạm Thái H không có tình tiết tăng nặng.
Tình tiết giảm nhẹ: Cả ba bị cáo Ch, Tr và H có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, nên cả ba bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Nguyễn Đức Ch có bố đẻ là ông Nguyễn Văn S là Thương binh hạng A bậc ¾, ông S được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất và Bảng vàng ghi công vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Mẹ đẻ của Nguyễn Đức Ch là bà Nguyễn Thị Ph cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hàng Nhì, nên bị cáo Nguyễn Đức Ch được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tính chất vai trò mức độ phạm tội của các bị cáo trong vụ án: Vụ án có ba bị cáo phạm tội trong một chuỗi sự việc có liên quan đến nhau của cùng một loại tội phạm. Trong đó: Nguyễn Đức Ch có mối quan hệ bán trái phép chất ma túy nhiều lần với Nguyễn Đình Tr, ngoài ra Ch còn bán trái phép chất ma túy cho Ng và H3. Nguyễn Đình Tr có mối quan hệ bán trái phép chất ma túy nhiều lần với Phạm Thái H; Có thể thấy hành vi phạm tội của Ch nghiêm trọng hơn Tr, nhưng Ch có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn Tr, lại chưa từng có tiền án tiền sự; vì vậy có thể xếp vai trò của Ch và Tr ngang bằng nhau trong vụ án này và áp dụng mức hình phạt của Ch ngang bằng với Tr là phù hợp. Bị cáo Phạm Thái H có hành vi tàng trữ trái phép 0,363 gam (không phẩy ba sáu ba gam) Methamphetamine mục đích để bán cho người khác kiếm lời, bị bắt quả tang nên bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
Cả ba bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr và Phạm Thái H đều là những người lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với cả ba bị cáo.
[4] Về vật chứng:
- 0,31 gam mẫu vật Methamphetamine trong niêm phong số 33/GĐMT và 03 (ba) nỏ thủy tinh gắn bầu trong là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động SAMSUNG màu trắng, số thuê bao 0901.512.659 thu của bị cáo H và số tiền 56.200.000 đồng thu của bị cáo Nguyễn Đức Ch là tài sản riêng của các bị cáo không liên quan đến việc phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho các bị cáo, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIGI số thuê bao 0906.641.328 thu của bị cáo H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar số thuê bao 0374.336.898 thu của Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc số thuê bao 0354.948.936 thu của bị cáo Ch là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
- 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức Ch là giấy tờ nhân thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức Ch.
- Số tiền 300.000 đồng do Tr bán trái phép chất ma túy cho H mà có và số tiền 3.020.000 đồng do Nguyễn Đức Ch bán trái phép chất ma túy cho Tr, Ng và H3 mà có là tiền các bị cáo thu lợi bất chính, cần được tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
[5] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về việc truy tố và kết luận tại phiên tòa của Viện kiểm sát:
Cáo trạng số 109/CT-VKSHL ngày 09/04/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Phạm Thái H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Kết luận và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr và Phạm Thái H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự;
Xử phạt Nguyễn Đức Ch 07 (bảy)năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 18/12/2018.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự;
Xử phạt Nguyễn Đình Tr 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 18/12/2018.
- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Phạm Thái H 24 (hai bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 17/12/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với cả ba bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr, Phạm Thái H.
- Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Buộc bị cáo Nguyễn Đình Tr phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính 300.000đ (Ba trăn nghìn đồng) là tiền do Tr bán trái phép chất ma túy cho H mà có, để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
+ Buộc bị cáo Nguyễn Đức Ch phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính 3.020.000 đ (Ba triệu không trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền do Chính bán trái phép chất ma túy cho Tr, Nga và H3 mà có, để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
+ Tịch thu tiêu hủy: 0,31 gam mẫu vật Methamphetamine trong niê m phong số 33/GĐMT và 03 (ba) nỏ thủy tinh gắn bầu trong;
+ Tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu GIGI kèm theo sim, thu của Phạm Thái H, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của máy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar kèm theo sim thu của Nguyễn Đình Tr, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của máy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc kèm theo sim thu của Nguyễn Đức Ch, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của máy;
+ Trả lại bị cáo Phạm Thái H 01 điện thoại di động SAMSUNG màu trắng, kèm theo sim, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng của máy, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
+ Trả lại bị cáo Nguyễn Đức Ch số tiền 56.200.000 đ (Năm sáu triệu, hai trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (không kiểm tra tiền thật hay tiền giả), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án, trong đó:
Tiền polime mệnh giá 500.000đ gồm 105 tờ = 52.500.000 đồng Tiền polime mệnh giá 200.000đ gồm 16 tờ = 3.200.000 đồng Tiền polime mệnh giá 100.000đ gồm 5 tờ = 500.000 đồng + Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức Ch 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức Ch.
(theo Biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 154 /BB-THA ngày 21/05/2019 giữa Công an thành phố Hạ Long và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long và Bảng kê tiền vật chứng số 154/BB-THA).
- Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tr và Phạm Thái H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo Nguyễn Đức Ch, Nguyễn Đình Tru và Phạm Thái H; Báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 196/2019/HSST ngày 11/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 196/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về