Bản án 1959/2019/HNGĐ-ST ngày 27/12/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1959/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 593/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6001/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trương Công T, sinh năm 1962 Địa chỉ: Đường L, Phường P, Quận T, Thành phố H.

Bị đơn: Bà Lương Tuệ L (Tue Linh L), sinh năm 1965 Địa chỉ: 6/154 Athol RD Springvale South Vic 3172, Australia.

Đại diện ủy quyền của bị đơn: Ông Trần Đăng M, sinh năm 1979; Địa chỉ: Đường Q, Phường M, Quận N, Thành phố H.

(Các đương sự vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26/9/2019, và bản tự khai, nguyên đơn ông Trương Công T trình bày:

Ông và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) tự nguyện kết hôn vào năm 1982 theo giấy chứng nhận kết hôn số 567, quyển số 1/1982 do Ủy ban nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/8/1982.

Sau khi kết hôn ông và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) chung sống tại Việt nam được 31 năm. Trong quá trình chung sống hai bên không phát sinh mâu thuẫn. Đến cuối năm 2013 bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) quay trở về Australia sinh sống và làm việc. Hai bên vẫn thỉnh thoảng có nói chuyện với nhau qua điện thoại nhưng không gặp nhau, do sống cách xa nhau về địa lý không có thời gian quan tâm nhau nên hai vợ chồng dần phát sinh nhiều mâu thuẫn và tình cảm vợ chồng dần phai nhạt. Hai bên đã cố gắng nói chuyện với nhau để giải quyết những mâu thuẫn bất đồng và tìm giải pháp tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn nhưng không được. Từ năm 2016 đến nay ông và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) không còn liên lạc với nhau để tâm sự, quan tâm, chia sẻ mọi thứ trong cuộc sống. Hiện tại ông đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam còn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) sinh sống và làm vệc tại Australia, hai bên không chung sống với nhau trong một thời gian dài làm cho tình trạng mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng không hàn gắn được.

Nay ông nhận thấy không còn tình cảm với bà Lương Tuệ L (Tue Linh L), cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Ông Trương Công T khai ông và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) có 02 con chung tên Trương Bửu C, sinh ngày 01/9/1983 và Trương Diệu T, sinh ngày 19/01/1988 đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại bản tự khai của bị đơn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) đề ngày 04/12/2019 được chứng thực chữ ký ngày 04/12/2019 tại Văn phòng công chứng số 2, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau: Bà và ông Trương Công T tự nguyện kết hôn vào năm 1982 theo giấy chứng nhận kết hôn số 567, quyển số 1/1982 do Ủy ban nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/8/1982.

Sau khi kết hôn về quá trình sống chung và mâu thuẫn như ông Trương Công T đã trình bày. Bà và ông Trương Công T đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, thỉnh thoảng hai bên vẫn còn liên lạc qua điện thoại nhưng không gặp nhau. Hiện nay bà đang sinh sống và làm việc tại Austrailia còn ông Trương Công T sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Nay bà nhận thấy hiện nay tình cảm vợ chồng không hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt đđược. Bà được biết ông Trương Công T yêu cầu ly hôn với bà Về quan hệ hôn nhân: Bà đồng ý ly hôn với ông Trương Công T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trương Bửu C, sinh ngày 01/9/1983 và Trương Diệu T, sinh ngày 19/01/1988 đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa sơ thẩm : Nguyên đơn bà Trương Công T, bị đơn Lương Tuệ L (Tue Linh L) đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết :

Nguyên đơn ông Trương Công T đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, bị đơn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) đang cư trú tại Australia, giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37 ; điểm a khoản 2 Điều 38 ; Điều 464 ; Điều 465 ; điểm g khoản 1 Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122 ; Điều 123 ; Điều 124 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm :

Nguyên đơn ông Trương Công T; bị đơn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ nên vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung :

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn ông Trương Công T; bị đơn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) tự nguyện kết hôn vào năm năm 1982 theo giấy chứng nhận kết hôn số 567, quyển số 1/1982 do Ủy ban nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/8/1982. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của đôi bên thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Việt Nam được 31 năm. Đến năm 2013 bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) sang Australia sinh sống và làm việc. Do thiếu sự quan tâm lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng và tin tưởng, quan điểm và suy nghĩ khác biệt nên tình cảm vợ chồng dần lạnh nhạt, không thể hàn gắn tình cảm. Ông Trương Công T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân và có yêu cầu được ly hôn. Ý kiến của bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Trương Công T.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng để tiếp tục cuộc hôn nhân hạnh phúc. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Việc ông Trương Công T yêu cầu ly hôn là có căn cứ và phù hợp với pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung : Ông Trương Công T và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) cùng xác nhận có 02 con chung tên Trương Bửu C, sinh ngày 01/9/1983 và Trương Diệu T, sinh ngày 19/01/1988 đều đã trưởng thành [3] Về tài sản chung và nợ chung : Ông Trương Công T và bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ khoản 1 Điều 51 ; Điều 53 ;khoản 1 Điều 56 ; Điều 57; Điều 122; Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016.UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008 ; Tuyên xử :

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Trương Công T.

1/ Quan hệ hôn nhân: Ông Trương Công T được ly hôn với bà Lương Tuệ L (Tue Linh L).

Giấy chứng nhận kết hôn số 567, quyển số 1/1982 do Ủy ban nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/8/1982 không còn giá trị pháp lý kể tự ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2/ Về con chung :

Có 02 con chung tên Trương Bửu C, sinh ngày 01/9/1983 và Trương Diệu T, sinh ngày 19/01/1988 đều đã trưởng thành 3/ Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Trương Công T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền ông Trương Công T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2019/0024801 ngày 24/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Trương Công T đã nộp đủ án phí.

5/ Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn ông Trương Công T và bị đơn bà Lương Tuệ L (Tue Linh L); ông Trương Công T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Bà Lương Tuệ L (Tue Linh L) được quyền kháng cáo trong hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1959/2019/HNGĐ-ST ngày 27/12/2019 về ly hôn

Số hiệu:1959/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về