TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN – TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 195/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 182/2019/TLST- HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/ 2019/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Sỹ D sinh năm 1984 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: 07 phố Q, phường A, Tp.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Sỹ L và bà Nguyễn Thị N; có vợ tên Lê Thị Q; có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2008; Nhân thân: Năm 2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Đánh bạc theo bản án số 169/2007/HSST ngày 19/7/2007; tiền án: không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25/5/2019.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Đặng Văn D, sinh năm 1971 (vắng mặt) Địa chỉ: 19/17/21/5G phường B H, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11h30 ngày 25/5/2019 Công an xã Bà Điểm phối hợp cùng Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện Hóc Môn bắt quả tang Lê Sỹ D khi đang thực hiện hành vi tàng trữ ma túy nhằm mục đích bán cho con nghiện. Thu giữ trên tay trái của D 01 gói thuốc lá hiệu Jet bên trong có 21 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng tại trước quán nước mía thuộc tổ 19 ấp ĐL 1, xã BĐ, huyện Hóc Môn.
Tại Cơ quan điều tra, D khai nhận: Bản thân nghiện ma túy nên bắt đầu bán ma túy được 02 ngày cho nhiều người nghiện khác nhau (không rõ lai lịch). Nguồn ma túy D mua của 01 thanh niên (không rõ lai lịch) ở khu vực chuồng bò, xã TĐ, huyện Củ Chi, rồi phân nhỏ ra bán kiếm lời và sử dụng. Khoảng 09h00 ngày 25/5/2019, D mua 1.000.000 đồng heroin, phân nhỏ ra thành 21 tép nhỏ (ký hiệu mẫu m), bỏ vào bao thuốc lá hiệu Jet, rồi điều khiển xe máy, biển số 17H1- 9577 đến khu vực trên bán cho con nghiện thì bị bắt quả tang như trên. Thu lợi bất chính 100.000đồng.
Tại Bản kết luận giám định số 1168/KLGĐ-H ngày 30/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất bột màu trắng được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9768g, loại Heroin (BL 60) Vật chứng thu giữ:
- 01 gói niêm phong số 1168.
- 01 điện thoại di động hiệu Masetel màu đen, liên quan đến việc mua bán ma túy.
- Số tiền 100.000đồng.
- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.
- 01 căn cước công dân mang tên Lê Sỹ D và 01 giấy đăng ký xe, biển số:
17H1-9577.
- Xe máy hiệu suzuki, biển số: 17H1-9577, số máy: VN-117547, số khung: FVN-117547. Qua xác minh thuộc sở hữu của ông Đặng Văn D. Ông D đã bán xe cho người khác không rõ lai lịch. D khai mua xe để làm phương tiện đi lại, người bán chỉ giao giấy đăng ký xe, không làm thủ tục sang tên. Cơ quan điều tra đăng thông báo tìm chủ sở hữu.
Tại bản cáo trạng số 174/CT-VKS-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Sỹ D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khỏan 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sau đây được gọi tắt là Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã đề nghị xử phạt bị cáo từ 02(hai) năm 06(sáu) tháng đến 03(ba) năm tù, phạt bị cáo 5.000.000đồng nộp vào ngân sách Nhà nước, buộc bị cáo nộp lại số tiền 100.000đồng tiền thu lợi bất chính và 01 điện thọai di động hiệu Masetel; Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số vụ 1168 và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet; Trả lại cho bị cáo 01 CMND mang tên Lê Sỹ D.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Lê Sỹ D tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, bản kết luận điều tra của công an huyện Hóc Môn, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn và đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Khoảng 11h30 ngày 25/5/2019 Công an xã Bà Điểm phối hợp cùng Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện Hóc Môn bắt quả tang Lê Sỹ D khi đang thực hiện hành vi tàng trữ ma túy nhằm mục đích bán cho con nghiện. Căn cứ bản kết luận giám định số 1168/KLGĐ-H ngày 30/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,9768g (không phẩy chín bảy sáu tám gam) loại Heroine. Hành vi như đã nêu trên của bị cáo Lê Sỹ D đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố để xét xử bị cáo theo điều luật đã viện dẫn trên là đúng người, đúng tội, nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
[3] Bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo thừa hiểu rằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy để thu lợi bất chính là thực sự gây nguy hiểm cho xã hội, chống lại chủ trương bài trừ ma túy của Đảng và Nhà nước, làm lây lan tệ nạn hút chích ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương, là một trong các nguyên nhân gây nên các loại tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, năm 2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Đánh bạc, đồng thời bị cáo là đối tượng nghiện heroine nên hơn ai hết bị cáo ý thức được tác hại của heroine, nhưng bị cáo vẫn tiếp tục bán ma túy cho người khác góp phần gieo rắc cái chết trắng cho xã hội. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm có tác dụng cải tạo và giáo dục bị cáo thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét:
[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó áp dụng điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự có phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[6] Ngoài hình phạt chính Hội đồng xét xử còn quyết định áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự phạt bị cáo 5.000.000đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.
[7] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận số tiền thu lợi từ việc bán ma túy là 100.000đồng, nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo có nghĩa vụ nộp lại số tiền nêu trên vào ngân sách Nhà nước.
Đối với đối tượng bán trái phép chất ma túy cho bị cáo chưa rõ lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn tiếp tục làm rõ xử lý sau.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói ma túy đã niêm phong số vụ 1168; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Masetel màu đen, liên quan đến việc mua bán ma túy và số tiền 100.000đ tiền thu lợi bất chính nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 căn cước công dân mang tên Lê Sỹ D là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 giấy đăng ký xe, biển số: 17H1-9577 và 01 xe máy hiệu suzuki, biển số: 17H1-9577, số máy: VN-117547, số khung: FVN-117547. Qua xác minh thuộc sở hữu của ông Đặng Văn D. Ông D đã bán xe cho người khác không rõ lai lịch. Bị cáo D khai mua xe để làm phương tiện đi lại, người bán chỉ giao giấy đăng ký xe, không làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo tìm chủ sở hữu trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ nên Hội đồng xét xử xét thấy giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu để xử lý giải quyết theo diện tài sản vắng chủ;
[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Sỹ D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; các Điều 32, 38, 50, của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Sỹ D 03(ba) năm tù;
Thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2019;
- Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo Lê Sỹ D nộp 5.000.000đ(năm triệu đồng) vào ngân sách Nhà nước;
- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giam bị cáo Lê Sỹ D 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;
- Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Áp dụng điểm a, điểm c, khoản 2, điểm b, khỏan 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh 01 giấy đăng ký xe, biển số: 17H1-9577 và 01 xe máy hiệu suzuki, biển số:
17H1-9577, số máy: VN-117547, số khung: FVN-117547 thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để truy tìm chủ sở hữu đối với 01 xe gắn máy hiệu suzuki, biển số: 17H1-9577, số máy: VN-117547, số khung: FVN-117547. Trong thời hạn 01(một) năm kể từ ngày thông báo, nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại cho họ. Sau 01(một) năm kể từ ngày thông báo mà không xác định được ai là chủ sở hữu thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masetel màu đen (cũ đã qua sử dụng) liên quan đến việc mua bán ma túy và số tiền 100.000đ(một trăm năm mươi ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính;
Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy đã niêm phong số vụ 1168 có chữ ký của Phan Tấn Q, Lê Sỹ D và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet;
Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Lê Sỹ D;
(Tang vật được ghi theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh và giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9061672 tại KBNN: Hóc Môn lập ngày 27/8/2019);
- Áp dụng Điều 357 Bộ luật dân sự;
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu bị cáo Lê Sỹ D chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng bị cáo còn phải trả thêm tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy địmh tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về án phí: Buộc bị cáo Lê Sỹ D phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;
Áp dụng các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xin xét xử phúc thẩm.
Bản án 195/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 195/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về