Bản án 195/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 195/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại phòng xử án - Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 705/2019/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 158 /2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị V – sinh năm 1989 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: X đường Y, tổ dân phố v, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông Võ Lê D – sinh năm 1985 (vắng mặt)

Địa chỉ: X đường Y, tổ dân phố v, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị V trình bày: Bà và ông Võ Lê D có tìm hiểu, chung sống và đăng ký kết hôn vào ngày 01/11/2012 tại UBND xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tự nguyện. Ông bà chung sống hạnh phúc một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do quan điểm sống, cách sống không thể hòa hợp, thường xuyên cãi vã, chồng có lần đánh đập vợ, không có trách nhiệm với gia đình, không lo cho kinh tế gia đình. Hiện nay ông bà đã sống ly thân được 6 tháng. Xét thấy tình cảm không còn nên bà V đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.

Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau bà Lê Thị V và ông Võ Lê D có 02 đứa con chung là cháu Võ Lê Uyên T, sinh ngày 10/4/2013 và cháu Võ Lê Như N, sinh ngày 27/7/2016. Hiện hai cháu đang ở với mẹ. Bà V có nguyện vọng được chăm sóc nuôi dưỡng 2 cháu đến tuổi trưởng thành.

Hiện bà V làm lễ tân tại Khách sạn Cao Nguyên, địa chỉ z đường P, thành phố B, lương 6.000.000 đồng/tháng.

Về cấp dưỡng: Bà V không yêu cầu ông D cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà V tự thỏa thuận tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Võ Lê D: Tòa án đã thực hiện niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông D vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị V yêu cầu ly hôn với ông Võ Lê D, địa chỉ hộ khẩu thường trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn ông Võ Lê D đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Nguyên đơn bà Lê Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị V và ông Võ Lê D tự nguyện tìm hiểu, đủ điều kiện kết hôn và đã đăng ký kết hôn vào ngày 01/11/2012 tại UBND xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tự nguyện nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Bà Lê Thị V và ông Võ Lê D chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là giữa hai người bất đồng quan điểm, cách sống không hòa hợp, vợ chồng hay cãi nhau. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông D vẫn vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương, nơi bà Lê Thị V và ông Võ Lê D chung sống. Đại diện chính quyền địa phương cho biết:“Bà Lê Thị V và ông Võ Lê D chung sống có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa phương. Về mâu thuẫn giữa vợ chồng thì địa phương không nắm rõ do chị V và anh D không yêu cầu hòa giải. Hiện chị V đã bỏ về nhà mẹ sinh sống. Nay chị V khởi kiện xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”.

Hi đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, việc ông D không đến tham gia vào các buổi hòa giải và phiên xét xử của Tòa, đã thể hiện việc ông D không có ý định hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này, từ đó cho thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Lê Thị V, cho bà V được ly hôn với ông Võ Lê D.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau bà Lê Thị V và ông Võ Lê D có 02 đứa con chung là cháu Võ Lê Uyên T, sinh ngày 10/4/2013 và cháu Võ Lê Như N, sinh ngày 27/7/2016. Các cháu hiện còn nhỏ và đang sống cùng với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà V về việc được nuôi 02 cháu là phù hợp với thực tế, nguyện vọng của con chung và đảm bảo được quyền và lợi ích của con chung. Ông Võ Lê D không tham gia các buổi làm việc tại Tòa án thể hiện việc không có ý kiến về việc nuôi con chung, do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung là cháu Võ Lê Uyên T, sinh ngày 10/4/2013 và cháu Võ Lê Như N, sinh ngày 27/7/2016 cho mẹ là bà Lê Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ.

[2.3] Về cấp dưỡng: nguyên đơn bà Lê Thị V không yêu cầu ông Võ Lê D cấp dưỡng, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là phù hợp.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà Lê Thị V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định, bị đơn ông Võ Lê D không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ: Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ: Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị V

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị V được ly hôn với ông Võ Lê D.

2. Về con chung:

Giao cháu Võ Lê Uyên T, sinh ngày 10/4/2013 và cháu Võ Lê Như N, sinh ngày 27/7/2016 cho mẹ là bà Lê Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Ông Võ Lê D có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Lê Thị V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà bà Lê Thị V đã nộp theo biên lại thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0002330 ngày 03/9/2019 tại chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 195/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:195/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về