Bản án 195/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 195/2018/HS-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 192/2018/TLST- HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2018/QĐXXST – HS ngày 05 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Quốc L, sinh năm 1991 tại Hà Tĩnh; nơi đăng ký thường trú: Thôn TX, xã KT, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quốc T, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 12/8/2018, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị T, sinh năm 1989; thường trú: Thôn TX, xã KT, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: 16 khu phố 3, phường BC, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Phan Công T, sinh năm 1990; thường trú: Đội 4, thôn TX, xã KT, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

+ Ông Huỳnh Thanh L, sinh năm 1986; thường trú: 3/17 khu phố BĐ2, phường BH, thị xã TA, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 12/8/2018 Lực lượng cảnh sát cơ động công an tỉnh Bình Dương phối hợp Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An và Công an phường Bình Hòa, thị xã Thuận An tuần tra đến đoạn đường Nguyễn Du thuộc khu phố Bình Đức 3, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Đặng Quốc L đang điều khiển xe mô tô biển số 38K1-099.03 chở Phạm Công T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi lực lượng kiểm tra, phát hiện trong ống quần bên trái Đặng Quốc L đang mặc có cất giấu 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật.

Tang vật thu giữ là 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 xe mô tô biển số 38K1-099.03

Quá trình điều tra Đặng Quốc L khai nhận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 11/8/2018 Lịch từ nơi trọ tại phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh điều khiển xe mô tô biển số 38K1-099.03 đến phòng của Thìn tại 16/3 khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đến khu Việt-Sing để ăn uống. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 12/8/2018 thì L chở T về. Trên đường về do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L nói với T đi đến khu vực cầu vượt Sóng Thần để gặp người bạn có việc riêng. Do đang ngồi trên xe của L nên T đồng ý đi cùng với L. Khi đi đến gần cầu vượt Sóng Thần, L dừng xe để Thìn vào mua thuốc lá còn L điều khiển xe mô tô biển số 38K1-099.03 đi đến cầu vượt Sóng Thần thuộc thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương mua ma túy đá được bỏ trong 01 gói nylon hàn kín của một người thanh niên tên D, không rõ nhân thân, lai lịch với số tiền 1.000.000 đồng rồi giấu toàn bộ số ma túy vào trong ống quần bên trái của L đang mặc về sử dụng. Sau khi mua ma túy, L quay xe lại chở Thìn về nhà trọ của T. Khi đi đến đường Nguyễn Du thuộc khu phố Bình Đức 3, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng công an bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 494/MT-PC54 ngày 14/8/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 1,0110 gam loại Methamphemine.

Đối với Phan Công T, quá trình điều tra xác định Lịch mua ma túy và cất giấu trong người thì T không biết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét xử lý đối với T là có căn cứ, đúng quy định.

Đối với người đàn ông tên D (không rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho L, hiện chưa xác định được, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu đỏ đen dung tích 110cm3 biển số 38K1-099.03 có số khung 837934, số máy 837946 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là của bà Đặng Thị T, sinh năm 1989; thường trú: Thôn TX, xã KT, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (chị ruột bị cáo) đứng tên chủ sở hữu.

Vào ngày 11/8/2018 bị cáo mượn chiếc xe trên đi ăn tối, sau đó sử dụng xe này đi mua ma túy thì bà Thanh không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại chiếc xe trên cho bà Đặng Thị T là có căn cứ.

Tại Cáo trạng số 203/CT-VKS-TA ngày 26 tháng 9 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đặng Quốc L về “Tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên qua phần xét hỏi tại phiên tòa, kiểm sát viên kết luận bị cáo về tội nhẹ hơn, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Quốc L mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; ngoài ra đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Đặng Quốc L đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 12/8/2018 Lực lượng cảnh sát cơ động công an tỉnh Bình Dương phối hợp Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An và Công an phường Bình Hòa, thị xã Thuận An tuần tra đến đoạn đường Nguyễn Du thuộc khu phố Bình Đức 3, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Đặng Quốc L đang điều khiển xe mô tô biển số 38K1-099.03 chở Phạm Công T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi lực lượng kiểm tra, phát hiện trong ống quần bên trái Đặng Quốc L đang mặc có cất giấu 01 gói nylon hàn kín có chứa thành phần Methamphemine, khối lượng 1,0110 gam, Đặng Quốc L khai nhận dùng để sử dụng, do đó Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật sau giám định có trọng lượng sau giám định 0,9215 gam đựng trong bì thư niêm phong, ký hiệu số 494/PC54 là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu đỏ đen dung tích 110cm3 biển số 38K1-099.03 có số khung 837934, số máy 837946 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là của bà Đặng Thị T, sinh năm 1989; thường trú: Thôn TX, xã KT, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh (chị ruột bị cáo) đứng tên chủ sở hữu, bị cáo mượn chiếc xe trên đi ăn tối, sau đó sử dụng xe này đi mua ma túy thì bà T không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại chiếc xe trên cho bà Đặng Thị T là có căn cứ, bà T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không xem xét.

Đối với Phan Công T, quá trình điều tra xác định Lịch mua ma túy và cất giấu trong người thì T không biết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét xử lý đối với T là có căn cứ, đúng quy định.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo L, hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đặng Quốc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy .

Xử phạt bị cáo Đặng Quốc L 01 ( một ) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12 tháng 8 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong, ký hiệu số 494/PC54. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/9/2018).

3. Về án phí: Bị cáo Đặng Quốc L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 195/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:195/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về