TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 194/2021/HS-PT NGÀY 12/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử A thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLPT - HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Võ Văn A do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 495/2020/HSST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Văn A; sinh ngày: 30/10/1976, tại Bến Tre; nơi thường trú: 50/1B Khu phố 1, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Võ Văn D và bà Trương Thị Đ; có vợ và 02 con (lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2011); Tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 360/2020/HSPT ngày 15/6/2020 (Bản án sơ thẩm số 05/2020/HSST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau).
Bị cáo bị tạm giam theo Bản án A thẩm số 360/2020/HSPT ngày 15/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 09/10/2019 (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đỗ Hải E là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tháng 10/2015, tại Hội thảo tư vấn bảo hiểm của Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ F (sau đây gọi là Công ty TNHH F) trụ sở số 149-151 G, quận H, thông qua tư vấn của bà Lê Thị I là nhân viên tư vấn của Công ty TNHH F, ông Lê Minh J đã ký hợp đồng bảo hiểm trị giá 1.100.000.000 đồng với Công ty TNHH F, thời hạn hợp đồng là 10 năm, mỗi năm ông J phải nộp cho Công ty số tiền 103.818.000 đồng. Cũng tại hội thảo này, ông J được Bùi Quốc K là Trưởng phòng kinh doanh của Công ty TNHH F giới thiệu Võ Văn A là nhân viên của Ngân hàng L. Võ Văn A tư vấn cho ông J là Công ty TNHH F và Ngân hàng L có hợp đồng liên kết, nếu ông J gửi số tiền 882.000.000 đồng vào Ngân hàng L, tiền lãi I năm sẽ đủ trả tiền bảo hiểm định kỳ, ông A không phải nộp tiền bảo hiểm hàng năm cho Công ty TNHH F. Sau khi hết hạn hợp đồng, ông J sẽ được 02 lợi ích là trả xong tiền hợp đồng bảo hiểm và được hoàn lại số tiền gốc 882.000.000 đồng.
Tin thật, nên ông Lê Minh J đồng ý và đưa giấy tờ tùy thân cho A, sau đó A báo đã mở thẻ Visa Signature và mở tài khoản số 4373740500087350 cho ông J tại Ngân hàng L, theo hướng dẫn của A, ngày 17/12/2015, ông J đã nộp số tiền 882.000.000 đồng vào tài khoản nêu trên.
Ngày 30/10/2016, ông J nhận thông báo của Công ty TNHH F đề nghị thanh toán tiền bảo hiểm năm 2016. Ông J đến Ngân hàng L liên hệ được biết tài khoản số 4373740500087350 do Võ Văn A đứng tên chủ tài khoản, còn ông J chỉ là người đứng tên tài khoản thẻ phụ cùng A, số tiền 882.000.000 đồng đã được A rút hết khỏi tài khoản. Ông J nhiều lần liên hệ với Lê Thị I, Bùi Quốc K và Võ Văn A nhưng không được, nên có đơn tố cáo đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh:
- Bà Lê Thị I khai: Bà được Công ty TNHH F tuyển dụng vào làm nhân viên tư vấn bán hợp đồng bảo hiểm, ông J là khách hàng do I tư vấn, để mua bảo hiểm của Công ty. I là người trực tiếp tư vấn để ký hợp đồng bảo hiểm cho ông J. Tại buổi tư vấn, ông Bùi Quốc K, Trưởng phòng Công ty TNHH F có giới thiệu Võ Văn A là nhân viên bán sản phẩm cho Ngân hàng L - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh; A giới thiệu nếu khách hàng mua bảo hiểm gửi tiền vào ngân hàng thì tiền lãi đủ để thanh toán tiền bảo hiểm, tin là thật và nhận thấy việc này cũng có lợi cho khách hàng, lại là người của lãnh đạo M giới thiệu, nên I tin tưởng việc liên kết giữa Công ty và Ngân hàng là thật. Vì vậy, khi Võ Văn A tư vấn cho ông J về nội dung này, I cũng nghe và cùng A đi đến nhà ông J giao hợp đồng bảo hiểm và chứng kiến việc A đưa hồ sơ kê khai mở tài khoản, thông tin cá nhân của ông J để mở tài khoản ngân hàng. Sự việc tiếp theo trao đổi giữa A và ông J thế nào I không biết, cũng không thỏa thuận hay trao đổi nội dung gì với A, cũng không được A cho tiền hoặc hưởng lợi. Sau này, ông J liên hệ hỏi thăm về A và nói bị A lừa tiền thì I mới biết, I cũng liên hệ A và M giúp ông J tìm người nhưng không liên hệ được. Riêng Hợp đồng bảo hiểm của ông J, do bận việc nên I nhờ Trần Lâm Thy N (cũng là Nhân viên của Công ty TNHH F) ký vào người tư vấn cho ông J trên hợp đồng bảo hiểm.
- Ông Trần Lâm Thy N khai: Ông là nhân viên Công ty TNHH F, khách hàng Lê Minh O không phải do Công tư vấn, mà là khách của bà Lê Thị I. Tại thời điểm ký hợp đồng, bà I chưa phải là nhân viên chính thức, nên Công ký tên là nhân viên tư vấn cho ông J. Công không quen biết với ông Lê Minh J, Võ Văn A.
- Võ Văn A khai nhận: Từ ngày 24/02/2013, A mở tài khoản cá nhân tại Ngân hàng L - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, được Ngân hàng cấp tài khoản thẻ tín dụng số 4373740500112281 và 01 thẻ Credit Card cùng tài khoản, hạn mức tín dụng được cấp là 700.000.000 đồng, được rút tiền mặt, chuyển tiền, thanh toán tiền mua hàng tại các máy thanh toán tiền tự động, nộp trả tiền vào tài khoản sau đó. Tài khoản có thể mở liên kết các tài khoản phụ khácsử dụng, nhưng chỉ trong hạn mức mà tài khoản chính được cấp. Đồng thời, từng có thời gian làm đại lý bảo hiểm cho Công ty TNHH F, nên A biết quy trình, thủ tục của việc ký hợp đồng bảo hiểm. Thời điểm này, A sử dụng tiền trong tài khoản thẻ tín dụng của Ngân hàng sắp hết định mức, muốn sử dụng tiền trong tài khoản tiếp phải nộp tiền vào, bản thân không có tiền để nộp, nên A nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền.
Thông qua Bùi Quốc K, A biết ông Lê Minh J đã ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty TNHH F, nên tiếp xúc đưa thông tin không có thật về việc Công ty TNHH F và Ngân hàng L liên kết với nhau, nếu khách hàng có hợp đồng bảo hiểm và mở tài khoản gửi tiền tiết kiệm ở Ngân hàng L, tiền lãi trả hàng năm Ngân hàng sẽ chuyển đóng tiền bảo hiểm cho ông J. Kết thúc hợp đồng bảo hiểm, ông J được Ngân hàng hoàn lại đầy đủ phần tiền gốc đã nộp. Tin là thật, ông J thực hiện theo hướng dẫn của A, giao bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân đưa cho A mở tài khoản tại Ngân hàng L - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, được Ngân hàng cấp tài khoản số 4373740500087350 đây là tài khoản phụ và thẻ Visa Signature được liên kết vào tài khoản chính số 4373740500112281 của A để sử dụng chung hạn mức 700.000.000 đồng. Việc tài khoản và thẻ của ông J là tài khoản phụ, tiền nộp vào tài khoản ông J đứng tên sẽ được chuyển vào tài khoản chính của A, A không nói cho ông J biết. Sau đó, theo hướng dẫn của A, ngày 17/12/2015 ông J nộp 882.000.000 đồng vào tài khoản tên Lê Minh O có kết nối với tài khoản của A. Số tiền này khi vào tài khoản được thanh toán cấn trừ cho dư nợ tín dụng trước đó A đã chi xài, sử dụng là 562.528.197 đồng, số tiền 155.039.000 đồng còn lại A sử dụng thẻ để chi tiêu sử dụng cá nhân. Khi tài khoản hết tiền, A có đơn đề nghị Ngân hàng đóng tài khoản, hiện tài khoản của A và ông J không phát sinh công nợ với ngân hàng. Lê Thị I và Bùi Quốc K không biết, cũng không liên quan đến việc A chiếm đoạt tiền của ông J.
- Xác minh tại Công ty TNHH F: Ngày 31/10/2018, ông Lê Minh J có ký hợp đồng mua bảo hiểm trị giá hợp đồng 1.100.000.000 đồng, thời hạn hợp đồng đến ngày 31/10/2018. Người tư vấn ký hợp đồng là Trần Lâm Thy N, nhân viên Công ty TNHH F. Giữa Công ty TNHH F và Ngân hàng L - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh không ký hợp đồng liên kết. Võ Văn A từng là đại lý bảo hiểm cho Công ty TNHH F từ ngày 16/3/2015, đến ngày 03/6/2015 bị kỷ luật chấm dứt hợp đồng đại lý.
Bùi Quốc K có ký Hợp đồng đại lý dành cho Trưởng phòng kinh doanh với Công ty TNHH F và đã thanh lý hợp đồng với Công ty từ ngày 23/6/2017 theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Xác minh tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an: Bùi Quốc K đã xuất cảnh qua Mỹ từ 20/4/2017, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.
- Xác minh tại Ngân hàng L - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh: Ngày 08/9/2015, Võ Văn A, sử dụng chứng minh nhân dân số 025222265 cấp ngày 30/10/2009 tại Công an Thành phố Hồ Chí Minh để mở hạn mức tín dụng, được Ngân hàng cấp tài khoản tín dụng số 4373740500112281 có hạn mức tín dụng 700.000.000 đồng và thẻ Credit Card tương ứng với số tài khoản. Sau đó, Võ Văn A ký đơn bảo lãnh cho các cá nhân Lê Minh O, Nguyễn Thanh P và Nguyễn Thị Kiều Q được sử dụng hạn mức tín dụng của A, có quyền rút tiền để chi tiêu, nhưng người chịu trách nhiệm chính thanh toán tài khoản là Võ Văn A. Tài khoản phụ số 4373740500087350 và 01 thẻ Visa Signature cấp cho Lê Minh O được quyền rút tiền sử dụng và trả tiền cho ngân hàng theo số tài khoản này, nhưng không được sử dụng vượt quá hạn mức cấp cho tài khoản chính.
Từ ngày 15/9/2015 đến ngày 17/12/2015, Võ Văn A đã sử dụng tài khoản thẻ để thanh toán cho nhiều khoản chi tiêu cá nhân, với tổng số tiền 562.528.197 đồng. Đến ngày 17/12/2015, Lê Minh O nộp số tiền 882.000.000 đồng vào tài khoản liên kết với thẻ chính của A nêu trên, thể hiện chủ thẻ đã chi tiêu nhiều khoản với tổng số tiền 155.039.000 đồng. Sau đó, A có đơn đề nghị Ngân hàng đóng tài khoản, hiện không còn phát sinh công nợ. Ngày 23/01/2016, tài khoản Lê Minh O có sử dụng thanh toán tiền tại Big C R Hồ Chí Minh 02 lần với tổng số tiền 15.862.000 đồng.
Ngoài thẻ phụ tên Lê Minh O có liên kết với tài khoản chính của Võ Văn A, còn phát hiện cùng tài khoản chính này A còn mở thẻ phụ cho các cá nhân khác như; Nguyễn Thị Kiều Q, Nguyễn Thanh P, Trần Thị Minh S, Lê Út T, Nguyễn Việt U, Nguyễn Thanh V, Lê Văn W.
Ngày 07/3/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chữ ký và chữ viết Võ Văn A trên hồ sơ mở tài khoản tại Ngân hàng L - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, so với chữ ký và chữ viết trên bản khai nhân khẩu tại Công an Quận C, do một người ký và viết ra.
Ngày 01/7/2020, ông Lê Minh J xin rút đơn tố cáo, do gia đình Võ Văn A đã hoàn trả số tiền 866.000.000 đồng cho ông để khắc phục hậu quả, số tiền A chiếm đoạt ông J đã nhận đủ, nên xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 495/2020/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 54; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Võ Văn A 07 (bảy) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) năm tù của Bản án số 360/2020/HSPT ngày 15/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2020/HSST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau), buộc bị cáo chấp hành hình phạt cho cả hai bản án là 16 (mười sáu) năm tù.
Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24 tháng 12 năm 2020 bị cáo Võ Văn A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa A thẩm:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Văn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, xử phạt bị cáo 07 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới. Tại phiên tòa A thẩm bị cáo có lời khai vòng vo chưa thành khẩn nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất về tội danh nhưng về hình phạt tòa án sơ thẩm áp dụng có phần nghiêm khắc. Bị cáo cùng một hành vi phạm tội trong cùng thời điểm nhưng cơ quan điều tra lại tách ra thành 2 vụ án là bất lợi cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo để phù hợp với hành vi diễn biến của các vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Võ Văn A làm trong hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự A thẩm.
[2] Tại phiên tòa A thẩm, ban đầu bị cáo có lời khai vong vo cho rằng không biết việc ông J gửi tiền vào tài khoản và tài khoản bị cáo cho bà X mượn để rút tiền, sau đó bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Võ Văn A tự nhận là nhân viên của Ngân hàng L, đưa ra thông tin không có thật việc Công ty F và Ngân hàng L có chương trình liên kết, khi khách hàng mở và gửi tiền vào tài khoản tại Ngân hàng L sẽ được ưu đãi hưởng lãi đủ để trả tiền đóng cho hợp đồng bảo hiểm ký với Công ty F. Do tin lời A nói là thật, ông Lê Minh J đã cung cấp thông tin cá nhân cho A; để ông J tin tưởng, A đến Ngân hàng L đăng ký mở tài khoản phụ cho ông J, tài khoản và thẻ mở giao cho ông J nhưng có liên kết với tài khoản chính của A, A toàn quyền sử dụng tiền trong tài khoản đã mở cho ông J. Ngày 17/12/2015, sau khi ông Lê Minh J nộp 882.000.000 đồng vào tài khoản số 4373740500087350, số tiền này thực hiện cấn trừ dư nợ tài khoản chính của A đã sử dụng trước đó 562.528.197 đồng, số tiền còn lại 139.177.000 đồng A sử dụng tiêu xài cá nhân, đến ngày 22/4/2016 A có đơn đóng tài khoản ngân hàng. Toàn bộ số tiền ông Lê Minh J nộp được chuyển đến tài khoản chính của A, A chiếm đoạt sử dụng cá nhân và lẩn tránh khỏi nơi cư trú khi ông J phát hiện sự việc. Tại phiên tòa A thẩm bị cáo thừa nhận là chính bị cáo đã rút tiền trong tài khoản và cũng cho người khác là bà X mượn thẻ để rút tiền.
Như vậy, tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Văn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ làm ảnh hưởng đến đạo đức của xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng lại cố tình chiếm đoạt của ông J tổng số tiền 882.000.000 đồng nên cần xử lý nghiêm bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Võ Văn A:
Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo: bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại và bị hại đã có đơn xin rút đơn tố cáo, xác nhận đã nhận đủ số tiền thiệt hại và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.
Bị cáo có nhân thân xấu do đã bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 360/2020/HSPT ngày 15/6/2020 (Bản án sơ thẩm số 05/2020/HSST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau), nên cần phải xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Tại phiên tòa A thẩm bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết gì mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[4] Án phí hình sự A thẩm: Bị cáo Võ Văn A phải chịu 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Võ Văn A - Giữ nguyên bản án sơ thẩm như sau:
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Võ Văn A 07 (bảy) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) năm tù của Bản án số 360/2020/HSPT ngày 15/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2020/HSST ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau), buộc bị cáo chấp hành hình phạt cho cả hai bản án là 16 (mười sáu) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2019.
2. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3. Án phí A thẩm: Bị cáo Võ Văn A phải chịu 200.000 đồng.
4. Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án A thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 194/2021/HS-PT ngày 12/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 194/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về