Bản án 193/2021/HSST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 193/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 196/TLST- HS ngày 28/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đ T, sinh năm 1997; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Tổ 14, ấp Phú Mỹ, thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Số 16 phố Nguyễn Huy Tự, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông: Nguyễn Bình Đ; Con bà: Tô Ngọc T1.

Tiền án, tiền sự: Không.

Danh chỉ bản số 0830, lập ngày 31/12/2020 tại Công an quận Đống Đa. Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2020 tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h05’ ngày 22/12/2020, tổ công tác công an phường Văn Chương tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Đ T đang ngồi trên xe máy Honda Wave 29S6 -150.09 dựng đỗ tại khu vực trước cửa nhà số nhà 61 Quốc Tử Giám, phường Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội. Quá trình kiểm tra, cơ quan công an đã phát hiện và thu giữ trong túi áo phía trước bụng mà T đang mặc có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 1x1 cm bên trong có các hạt tinh thể mầu trắng. Ngoài ra, cơ quan công an còn thu giữ của T 01 điện thoại di động Iphone màu đen số sim 0971732471, 01 xe máy kiểu dáng Honda Wave BKS 29S6 – 150.09.

Ngày 23/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đống Đa đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 42 đối với tang vật đã thu giữ của Nguyễn Đ T.

Tại bản Kết luận giám định số 11209/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,557 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đ T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ T khai: Khoảng 18 giờ ngày 22/12/2020, Huy (không rõ họ tên, địa chỉ - là bạn xã hội của T) sử dụng số điện thoại 0964804893 gọi vào số điện thoại 0971732471 của T để nhờ mua 1/2 gam ma túy “đá”, T đồng ý. Sau đó T đã nhắn tin cho Huyền Anh (sử dụng số điện thoại 0898351988) qua mạng zalo tên tài khoản Vũ Huyền Anh để hỏi mua ma túy. Huyền Anh bảo T đi ra khu vực trước cửa số 20 phố Cát Linh, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội để nhận ma túy. T điều khiển xe máy Honda Wave BKS 29S6-150.09 đi ra chỗ hẹn gặp một người đàn ông nhận số ma túy trên và trả cho người đàn ông này 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu vào trong túi áo phía trước bụng của mình. Đến khoảng 19 giờ 05 phút cùng ngày, khi T đang đỗ xe tại trước cửa số nhà 61 Quốc Tử Giám thì bị Cơ quan công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Đối với Huy là người nhờ T mua ma túy, tại Cơ quan điều tra T khai không biết họ tên, địa chỉ, chỉ biết Huy sử dụng số điện thoại 0964804893. Cơ quan điều tra đã xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội xác định chủ đăng ký số điện thoại trên là Đỗ Quý Thủy (sinh năm 1963, ĐKNK: Số 4 ngõ 3 phố Kim Mã, phường Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội). Hiện Đỗ Quý Thủy đã chết do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Đối với Huyền Anh là người bán ma túy cho T, tại Cơ quan điều tra T khai không biết họ tên, địa chỉ, chỉ biết Huyền Anh sử dụng số điện thoại 0898351988. Cơ quan điều tra đã xác minh tại Tổng công ty Viễn thông Mobifone xác định chủ đăng ký số điện thoại trên là Vũ Huyền M (sinh năm 1997, ĐKNK: C4 phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội). Tại Cơ quan điều tra, M khai số điện thoại trên là do M đăng ký và để cho chị gái là Vũ Huyền Anh (sinh năm 1988, ĐKNK: C4 phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội) sử dụng. Hiện Huyền Anh vắng mặt tại nơi cư trú. Ngày 20/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Đống Đa đã ra Quyết định tách vụ án hình sự Mua bán trái phép chất ma túy để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với người đàn ông đến giao ma túy cho T, tại Cơ quan điều tra T khai không quen biết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave BKS: 29S6-150.09 Cơ quan công an tạm giữ của Nguyễn Đ T, qua điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên là anh Ngô QĐ (sinh năm 1991, ĐKNK: Tổ 108 phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội), anh Định cho T mượn chiếc xe trên nhưng không biết việc T sử dụng xe đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trao trả xe cho anh Định.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bản cáo trạng số 195/CT-VKSĐĐ, ngày 26/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Nguyễn Đ T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ T mức án từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo và xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy ma túy; tịch thu sung công điện thoại di động đã thu giữ của bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ 05 phút ngày 22/12/2020, tại khu vực trước số 61 phố Quốc Tử Giám, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội; Nguyễn Đ T có hành vi tàng trữ trái phép 0,557 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Văn Chương phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Đ T đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự xã hội ở địa phương và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng vì là đối tượng nghiện nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Vì vậy, đối với bị cáo cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. [6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện, là lao động tự do thu nhập không ổn định; vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Vũ Việt Cường, cán bộ Công an phường Vũ Tùng Anh, người chứng kiến Hà Thắng Lợi, Nguyễn Thị Thanh Huyền và bị cáo Nguyễn Đ T, trong có chứa ma túy nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động Iphone màu đen thu giữ của Nguyễn Đ T, bị cáo đã dùng điện thoại liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung công.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Đ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1- Về mức hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ T 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2020.

2- Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền đối với bị cáo.

3- Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Vũ Việt Cường, cán bộ Công an phường Vũ Tùng Anh, người chứng kiến Hà Thắng Lợi, Nguyễn Thị Thanh Huyền và bị cáo Nguyễn Đ T.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động Iphone màu đen.

Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 246 ngày 14/6/2021 của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa và Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.

4- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc Nguyễn Đ T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2021/HSST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về