TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 193/2019/HS-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 160/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:
Lâm Minh T; sinh năm: 1988; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lâm Văn H; và bà: Lâm Thị N; chưa có vợ con; tiền án: ngày 23/02/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt ngày 25/8/2018; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 08/01/2019. (Có mặt).
Người làm chứng:
1/ Ông Tăng Chung M - sinh năm: 1987; địa chỉ: phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)
2/ Ông Bùi Anh T - sinh năm: 1982; địa chỉ: phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)
3/ Bà Phạm Thị Tuyết T - sinh năm: 1998; địa chỉ: phường Tam Phú, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 16/01/2019 Công an quận Thủ Đức tuần tra đến khu đất trống thuộc tổ 7, khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lâm Minh T điều khiển xe mô tô biển số 83E1- XXX đang chở một ba lô màu xám có in chữ SAMSUNG phía trước chỗ ngồi, có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra phát hiện thu giữ trong túi nhỏ bên hông ba lô gồm: 02 gói nylon bên trong có chứa tinh thể không màu được gói trong khẩu trang y tế màu xanh. T khai khoảng 08 giờ ngày 08/01/2019, T đến khu vực Xóm Củi, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông không rõ lai lịch mua 8.000.000 đồng ma túy, sau đó về quận Thủ Đức gặp Tăng Chung M để về nhà Mẫn sử dụng, chưa sử dụng thì bị bắt. Quá trình điều tra ban đầu T khai nhận mua số ma túy trên của Tăng Chung M tại khu vực 621, gần khu du lịch Suối Tiên, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng chưa lấy tiền mà Mẫn kêu T chạy theo Mẫn đến chỗ khác giao tiền, khi đến khu đất trống thì bị kiểm tra bắt giữ cùng với ma túy.
Tiến hành lấy lời khai của Bùi Anh T, Tăng Chung M và Phạm Thị Tuyết T khai có mua ma túy của T nhưng T không thừa nhận bán ma túy cho các đối tượng trên. Test ma túy đối với Mẫn và Trinh là âm tính với chất ma túy. Đối với lời khai của Bùi Anh T khai nhận có mua ma túy của Lâm Minh T trước đó nhưng T chỉ thừa nhận hùn tiền để mua ma túy sử dụng không bán lại cho Tuấn.
Kết luận giám định số 364/KLGĐ-H ngày 16/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu ml cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,6636g, loại Methamphetamine.
- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,9104g, loại Methamphetamine
Vật chứng vụ án:
+ 02 gói niêm phong ghi số vụ 364m1 và 364m2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.
+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia E71 màu đen số sim 0792xxxxxx.
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám đen số sim: 0938xxxxxx
+ số tiền 2.500.000 đồng.
+ 01 ba lô màu xám
+ 01 xe mô tô biển số 83E1-XXX.
[2] Bản Cáo trạng số 169/CT-VKSTĐ ngày 04/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Lâm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lâm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.
Bị cáo Lâm Minh T không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lâm Minh T phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 27.574g loại Methamphetamine.
Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Lâm Minh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Xét về nhân thân bị cáo có 01 tiền án, 23/02/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được tha tù trước thời hạn vào ngày 25/8/2018, bị cáo chưa được xóa án tích. Vì vậy lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xử lý bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.
[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trong hồ sơ vụ án thể hiện một số đối tượng như Bùi Anh T, Tăng Chung M và Phạm Thị Tuyết T khai có mua ma túy của T nhưng T không thừa nhận bán ma túy cho các đối tượng trên qua số điện thoại 0938xxxxxx. Đồng thời khi test ma túy đối với Mẫn và Trinh là âm tính với chất ma túy. Khi thực hiện lập biên bản kiểm tra điện thoại ngày 09/01/2019 và ngày 12/01/2019 đối với điện thoại nokia E71, số sim 0792xxxxxx không phát hiện nội dung có liên quan đến vụ án và biên bản kiểm tra điện thoại Iphone số sim 0938xxxxxx, điện thoại bị khóa bằng mật khẩu Icloud nên không thể mở máy để kiểm tra, máy yêu cầu kết nối Itunes, nếu kết nối sẽ mất dữ liệu trong máy và máy phải chạy lại chương trình từ đầu nên không thể mở máy để kiểm tra nội dung trong máy. Vì vậy, không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sụ bị cáo về tội “mua bán trái phép chất ma túy”.
[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- 01 gói niêm phong ghi số vụ số 364m1 và 364m2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia E71 màu đen số sim 0792xxxxxx và số tiền 2.500.000 đồng của bị cáo không liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám đen số sim: 0938xxxxxx T khai dùng số này để liên lạc mua ma túy sử dụng và hùn tiền mua ma túy với Bùi Anh T do đó điện thoại này là công cụ phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
- 01 ba lô màu xám là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.
- 01 xe mô tô biển số 83E1-XXX hiệu honda Winer, màu sơn: trắng đen số máy KC26EXXX, số khung 2609GYXXX, Lâm Minh T khai là cầm của T1 (không rõ lai lịch) ở ngã tư Bình Thái, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, với số tiền 8.000.000 đồng vào giữa tháng 12/2018. Qua xác minh xe trên là của anh Nguyễn Linh D cho Huỳnh Thế N mượn vào ngày 19/11/2018 nhưng không trả. Ngày 09/4/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra quyết định truy nã đối với Huỳnh Thế N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngày 12/4/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Lâm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lâm Minh T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số vụ số 364m1 và 364m2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định và 01 ba lô màu xám.
+ Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia E71 màu đen số sim 0792xxxxxx và số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng).
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám đen số sim: 0938xxxxxx
(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/182 ngày 25/6/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 13/5/2019).
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Lâm Minh T chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.
Bản án 193/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 193/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về