Bản án 193/2018/HNGĐ-ST ngày 20/07/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 193/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 170/2018/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018, về việc: Ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2018/QĐXX-ST, ngày 06 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lò Văn C - Sinh năm 1993 (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Chị Lò Thị V – Sinh năm 1997 (Vắng mặt tại phiên tòa).

Đều trú tại bản T, xã C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn anh Lò Văn C trình bầy:

Anh Lò Văn C và chị Lò Thị V kết hôn ngày 12/9/2016, đăng ký kết hôn tại UBND phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, kết hôn tự nguyện. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm, lối sống không hòa hợp, từ tháng 11/2017 chị V tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại bản H, phường C, thành phố Sơn La, anh C đã nhiều lần đến động viên chị V quay về, nhưng chị V không đồng ý, Vợ chồng sống ly thân từ tháng 11/2017 đến nay, nay tình cảm vợ chồng không còn anh Lò Văn C đề nghị được ly hôn chị Lò Thị V.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung; Về tài sản riêng; Về nợ chung: Đều không có.

Bị đơn chị Lò Thị V đã được triệu tập hợp lệ, giao thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo viết bản tự khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Chị V không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, không viết bản tự khai, không tham gia phiên họp công khai chứng cứ và phiên hòa giải.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Kể từ khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tham gia đúng thành phần trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, các trình tự của phiên tòa diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70; Điều 71; Điều 72 và Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật các quy định tại Điều 70; Điều 71; Điều 72 và Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung: Đề nghị áp dụng Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh Lò Văn C được ly hôn chị Lò Thị V, anh Lò Văn C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Lò Thị V đã được triệu tập hợp lệ lần thứ ba vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 3 Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Lò Thị V.

 [2] Về yêu cầu ly hôn của anh Lò Văn C: Anh Lò Văn C và chị Lò Thị V kết hôn ngày 12/9/2016, đăng ký kết hôn tại UBND phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, kết hôn tự nguyện, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh C yêu cầu ly hôn chị Lò Thị V.

Trên cơ sở xem xét các chứng cứ, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản xác minh tại chính quyền địa phương, biên bản xác minh đối với bố mẹ hai bên gia đình anh C và chị V cho thấy cuộc sống chung vợ chồng anh C, chị V không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài, đã được gia đình hai bên khuyên bảo nhiều lần nhưng không thành, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài nhiều năm, vợ chồng hiện đang sống ly thân từ tháng 11/2017 đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần, chị V cố tình vắng mặt không tham gia phiên hòa giải, điều đó cho thấy chị V không có thiện chí trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Từ các căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn của vợ chồng anh C và chị V đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Lò Văn C và xử cho anh Lò Văn C được ly hôn chị Lò Thị V.

 [3] Về con chung: Anh C, chị V không có con chung. [4] Về tài sản chung: Không có.

[5] Về tài sản riêng; Về nợ chung: Đều không có.

 [6] Về án phí: Anh Lò Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, về án phí Toà án:

1. Xử cho anh Lò Văn C được ly hôn chị Lò Thị V.

2. Về con chung: Vợ chồng không có con chung.

3. Về tài sản chung; Tài sản riêng; Nợ chung: Đều không có.

4. Về án phí: Anh Lò Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA/2016/0001152, ngày 09 tháng 5 năm 2018, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sơn La, anh C đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn anh Lò Văn C được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 20/7/2018); Bị đơn chị Lò Thị V được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2018/HNGĐ-ST ngày 20/07/2018 về ly hôn

Số hiệu:193/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về