Bản án 19/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 197/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Ngọc T, sinh năm 1991 tại Tuyên Quang; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Thế H, sinh năm 1972 và bà: Nông Thị Thu H, sinh năm: không rõ; vợ, con: không có; tiền án: Bản án số 50/2016/HSST ngày 25/02/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/4/2017; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 29/8/2020. Có mặt.

- Bị hại: Chị Võ Thị Hồng H, sinh năm 2000, nơi cư trú: xã C, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đỗ Thế H, sinh năm 1972, nơi cư trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Chị Hồ Thị Như N, sinh năm 1996, nơi cư trú: xã E, huyện F, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 15 phút ngày 05/12/2018, sau khi đi ăn cùng nhau, Đỗ Ngọc T điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59V2-405.09 chở bạn gái là Hồ Thị Như N về nhà. Trên đường đi, khi rẽ vào hẻm số 1010 đường X, Phường A1, quận B, T nhìn thấy chị Võ Thị Hồng H đang ngồi tại đầu hẻm, trên tay có sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung J3, T nảy sinh ý định cướp giật điện thoại của chị H nên điều khiển xe vòng lại, rẽ trái vào đường X, tiếp tục vòng vào đường hẻm nơi chị H đang ngồi. T điều khiển xe áp sát chỗ chị H đang ngồi, chồm người sang dùng tay phải giật được chiếc điện thoại và tăng ga xe bỏ chạy vào đường hẻm trên. T cầm điện thoại vừa giật được bằng tay phải nhưng vướng vào tay ga nên đưa điện thoại ra phía sau và nói với N “cầm, cầm…”. N mở mắt ra, dùng tay cầm điện thoại và cùng lúc nghe tiếng tri hô của chị H nên mới biết Tú vừa giật điện thoại. T chạy được khoảng 10, 20 mét thì bị vướng vào dàn giáo trên xe gắn máy của ông Nguyễn Tấn Tài đang điều khiển lưu thông ngược chiều làm T bị ngã xe. T bỏ xe lại và chạy bộ tẩu thoát được. Chị H lấy lại điện thoại trên tay Ngọc và cùng người dân đưa N về trụ sở Công an Phường 8, quận Tân Bình xử lý.

Tại Cơ quan công an, Hồ Thị Như N khai Đỗ Ngọc T là bạn trai chung sống như vợ chồng. T không bàn bạc với N về việc cướp giật điện thoại của chị H. Trong lúc T áp sát tiếp cận và giật điện thoại di động của chị H thì N ngồi sau ôm T và ngủ. Khi Tú đưa điện thoại cho N cầm thì đồng thời N nghe tiếng tri hô phía sau nên mới biết là T vừa giật điện thoại của chị H.

Ngày 29/8/2020, Công an Phường 8, quận Tân Bình bắt được Đỗ Ngọc T theo Quyết định truy nã của Công an quận Tân Bình về hành vi cướp giật điện thoại của chị Võ Thị Hồng H vào ngày 05/12/2018.

Quá trình điều tra, Đỗ Ngọc T thừa nhận hành vi cướp giật điện thoại di động của chị Võ Thị Hồng H vào ngày 05/12/2018 như nêu trên và khai nhận không có bàn bạc hay nói với N về việc cướp giật điện thoại. Khi cầm điện thoại vừa giật được bằng tay phải vướng vào tay ga nên T mới đưa ra phía sau và nói N “cầm, cầm…”. Sau đó thì T bị té ngã xe và bỏ chạy thoát. Lời khai của Đỗ Ngọc T là phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, các nhân chứng, hình ảnh camera ghi nhận hiện trường, thực nghiệm điều tra.

Do Tú và Ngọc đều khai nhận không có bàn bạc trước về việc cướp giật điện thoại của chị H, T là người trực tiếp cướp giật và trong lúc đó N ngồi phía sau ôm T ngủ, khi T đưa điện thoại cho cầm thì N mới biết, nên không có cơ sở xác định N là đồng phạm.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J3 trị giá 2.500.000 đồng, là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Võ Thị Hồng H. Chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 USB chứa dữ liệu camera vụ án.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, 01 bóp da màu vàng, 01 giấy đăng ký xe mang tên Lã Duy Hoàng, 01 thẻ căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Đỗ Ngọc T thu giữ của Tú.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha hiệu Exciter biển số 59V2-405.09 là phương tiện gây án. T khai xe gắn máy trên của cha là Đỗ Thế H mua cho T làm phương tiện đi lại. Qua xác minh, ông H không có mặt tại địa phương. Kết quả xác minh xe do anh Lã Duy H đứng tên sở hữu. Anh H khai năm 2016 đã bán xe gắn máy trên cho cửa hàng xe máy Lưu Thanh H tại số 77A đường T, Phường I, quận K, có làm giấy ủy quyền mua bán xe nhưng anh đã làm mất. Xác minh tại địa chỉ trên không có cửa hàng xe gắn máy Lưu Thanh H hoạt động.

- 01 mũ bảo hiểm màu đen sọc trắng, 01 đầm màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6plus 16GB màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy note 9 màu đen thu giữ của chị Hồ Thị Như N.

Tại bản cáo trạng số 172/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Đỗ Ngọc T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

 - Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Đỗ Ngọc T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Ngọc T đã có hành vi điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật lấy 01 điện thoại di động hiệu Samsung J3 trị giá 2.500.000 đồng của chị Võ Thị Hồng H, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Hồng H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB chứa dữ liệu camera vụ án là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, 01 bóp da màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Đỗ Ngọc T thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy 01 đôi dép nhựa màu đen là vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy; đối với 01 bóp da màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Đỗ Ngọc T là tài sản và giấy tờ cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha hiệu Exciter biển số 59V2-405.09 kèm 01 giấy đăng ký xe mang tên Lã Duy H thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc chưa rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu trong một thời gian nhất định, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 mũ bảo hiểm màu đen sọc trắng, 01 đầm màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6plus 16GB màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy note 9 màu đen thu giữ của chị Hồ Thị Như N, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản hợp pháp của chị N, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho chị N.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

[1] Tuyên bố bị cáo Đỗ Ngọc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Đỗ Ngọc T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2020.

[2] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB 4GB hiệu Kingston màu xanh.

Tịch thu và tiêu hủy 01 đôi dép nhựa màu đen hiệu DR.MARRENS.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia hiệu Nokia màu đen, số imei: 352709/04/237078/3, 01 bóp da màu vàng, 01 căn cước công dân số 008091000084 mang tên Đỗ Ngọc T và 01 giấy phép lái xe số 790140894684 mang tên Đỗ Ngọc T.

Trả lại cho chị Hồ Thị Như N: 01 đầm suôn màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu đen sọc trắng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6plus màu vàng 16GB, số imei: 355735041348058 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 9 màu đen, số imei: 3534567891118336, 353456789118337.

Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy hiệu Yamaha hiệu Exciter biển số 59V2-405.09, số khung: 0610GY210057, số máy: G3D4E222964 kèm 01 giấy đăng ký xe mang tên Lã Duy H trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 18/PNK ngày 11/12/2020 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về