Bản án 19/2021/HS-ST ngày 19/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 29/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trương Vĩnh X, sinh ngày 04 tháng 10 năm 1989 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường M, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Đầu bếp; Học vấn: 09/12; dân tộc: Hoa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương S; con bà: Vương L; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 14/10/2019 bị Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại Phường với thời gian 03 (ba) tháng; Nhân thân: Ngày 31/5/2007 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Chí Minh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 21/4/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Trương Vĩnh Xương 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2020 (có mặt tại phiên tòa).

2. Trần Ngọc T, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1993 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường Đ, Phường L, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm vườn; Học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Ngọc T; con bà: Phạm Thị H; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1969; Nơi cư trú: đường Đ, Phường L, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 40 phút ngày 24 tháng 10 năm 2020, Trần Ngọc T sau khi dự sinh nhật ở Nhà hàng Làng nướng Nam Bộ số 302A Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì điện thoại cho Trương Vĩnh X và nói với X đến đón T do T đã nhậu say, X đồng ý. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, X đi xe ôm đến chỗ hẹn, T nói X lái xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59L1-330.77 của T để chở T và T đưa cho X 200.000 đồng, nói X tìm mua ma túy rồi thuê khách sạn để cả hai cùng sử dụng chung, X đồng ý. X điều khiển xe chở T ngồi ngủ gật phía sau đến ven đường ở khu vực Quận 10 (không nhớ địa chỉ) gặp 01 (một) nam thanh niên (không rõ lai lịch) đang đứng để mua 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy đá với giá 150.000 đồng, còn 50.000 đồng thì X cho nam thanh niên đó luôn. X cất gói ma túy vào túi quần trước bên phải của X đang mặc rồi điều khiển xe đi kiếm nhà trọ để thuê sử dụng ma túy. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến trước số 928 Trần Hưng Đạo, Phường 7, Quận 5 thì bị tổ tuần tra Công an Quận 5 yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính nhưng cả hai đều không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên lực lượng Công an đã đưa T và X về Công an Phường 7, Quận 5 để làm việc. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên phải của X đang mặc có 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu X khai là ma túy đá nên Công an phường 7, Quận 5 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5, Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T đối chất, kết quả X và T đều thừa nhận việc T đã đưa tiền cho X để X đi mua ma túy cùng sử dụng chung, sau khi mua ma túy, khi cả hai đang tìm thuê phòng đề cùng nhau sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trương Vĩnh X và hình dấu Công an Phường 7, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1043g (không phẩy một không bốn ba gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1863/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và điều tra viên Ngô Hồng Quân);

01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei1: 35572609094926501; 01 (một) điện thoại di động màu trắng, hiệu Redmi, số Imei1: 86191504986075902; 01 (một) xe máy màu trắng đỏ, hiệu Honda Airblade, biển số 59L1-33077, số khung: BY-245356, số máy: F27E-1032621.

Tại bản Kết luận giám định số 1863/KLGĐ-H ngày 02/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trương Vĩnh X và hình dấu Công an Phường 7, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1043g (không phẩy một không bốn ba gam), loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số: 22/CT-VKSQ5 ngày 29/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trương Vĩnh X với mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Ngọc T với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù; về vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T không có ý kiến bào chữa, không tranh luận và đều nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, các bị cáo Trương Vĩnh X và Trần Ngọc T đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,1043g (không phẩy một không bốn ba gam), loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét các bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng các bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo Thuận là người bỏ tiền ra để đưa cho bị cáo Xương đi mua ma túy và cùng nhau sử dụng, vai trò của các bị cáo là tương đương nhau.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo Xương có nhân thân xấu từng bị Tòa án xét xử về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, cố ý gây thương tích và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại Phường nhưng không biết sửa đổi. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo; nhằm mục đích giáo dục các bị cáo, bên cạnh đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Riêng bị cáo T còn có thêm tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu. Do đó, cần xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), riêng bị cáo T còn được áp dụng theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc các bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định, để các bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch) đã có hành vi bán ma túy cho bị cáo X, Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch địa chỉ, khi nào bắt được sẽ xem xét xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trương Vĩnh X và hình dấu Công an Phường 7, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1043g (không phẩy một không bốn ba gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1863/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và điều tra viên Ngô Hồng Quân). Xét đây là vật phạm pháp, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei1: 35572609094926501. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo X, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo X.

01 (một) điện thoại di động màu trắng, hiệu Redmi, số Imei1 86191504986075902. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo T, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

01 (một) xe máy màu trắng đỏ, hiệu Honda Airblade, biển số 59L1- 33077, số khung: BY-245356, số máy: F27E-1032621 do bà Phạm Thị H đứng tên chủ sở hữu, bà H cho con là Trần Ngọc T mượn đi sinh nhật, không biết T cùng với X đi mua ma túy sử dụng nên xem xét trả lại cho bà H.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trương Vĩnh X 02 (hai) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2020.

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2020.

Căn cứ điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trương Vĩnh X và hình dấu Công an Phường 7, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1043g (không phẩy một không bốn ba gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1863/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang và điều tra viên Ngô Hồng Quân).

Trả lại cho bị cáo Trương Vĩnh X: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei1: 35572609094926501.

Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc T: 01 (một) điện thoại di động màu trắng, hiệu Redmi, số Imei1: 86191504986075902.

Trả lại cho bà Phạm Thị H: 01 (một) xe máy màu trắng đỏ, hiệu Honda Airblade, biển số 59L1-33077, số khung: BY-245356, số máy: F27E-1032621.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Luật phí và lệ phí.

Mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HS-ST ngày 19/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về