Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

 BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:13/2021/TLST-HN, ngày 22 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXX-ST ngày 26 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 14 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1993- Có đơn xin xét xử vắng mặt Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông

 - Bị đơn: Anh Võ Trường C, sinh năm 1988 – Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn T, xã T,huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông

 NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo nội dung đơn khởi kiện nhận ngày 08/02/2021, lời khai trong quá trình tố tụng của nguyên đơn chị Đặng Thị H:

Chị H và anh Võ Trường C kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Hôn nhân tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ép buộc. Anh chị có 01 con chung là Võ Trường A, sinh ngày 07/02/2014 hiện đang sống cùng anh C. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Năm 2018, chị H đã nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án hòa giải đoàn tụ. Tuy nhiên sau khi về chung sống vợ chồng tiếp tục phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh C là người ham mê cờ bạc và có tính vũ phu thường xuyên đánh đập vợ con. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2020 đến nay.Bản thân chị H nhận thấy không còn tình cảm yêu thương đối với anh Võ Trường C, mục đích hôn nhân không đạt được, việc ly hôn là cần thiết. Về yêu cầu khởi kiện: Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được xin ly hôn với anh Võ Trường C. Về con chung: Chị H xin được nhận nuôi cháu Võ Trường A, sinh ngày 07/02/2014; về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 25/6/2021, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil nhận được đơn xin xét xử vắng mặt của chị H.

2. Bị đơn anh Võ Trường C:Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự và thông báo hòa giải đoàn tụ, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Võ Trường C nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải. Tại biên bản xác minh ngày 14/5/2021 thì anh Võ Trường C có đăng ký hộ khẩu tại thôn T, xã T, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, tại thời điểm xác minh anh Võ Trường C vẫn đang sinh sống tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn chị Đặng Thị H đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị H, chị H được ly hôn với anh Võ Trường C; về con chung: Giao cháu Võ Trường A, sinh ngày 07/02/2014 cho chị H nuôi dưỡng, về tài sản chung và nợ chung chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về pháp luật tố tụng:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Chị Đặng Thị H yêu cầu ly hôn với anh Võ Trường C, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình (Xin ly hôn) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là anh Võ Trường C có địa chỉ cư trú tại thôn T, xã T, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý và giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Nguyên đơn chị Đặng Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Võ Trường C được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

2. Về pháp luật nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị H và anh Võ Trường C kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Đắk Mil. Hôn nhân tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ép buộc.

[5] Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng: Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Năm 2018, chị H đã nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án hòa giải đoàn tụ. Tuy nhiên sau khi về chung sống vợ chồng tiếp tục phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh C là người ham mê cờ bạc và có tính vũ phu thường xuyên đánh đập vợ con. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2020 đến nay.Tại biên bản xác minh ngày 14/5/2021 cũng ghi nhận nguyên nhân phát sinh mâu thuẫnvà tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C đúng như nội dung chị H đã trình bày.

[6] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh C là trầm trọng, không thể khắc phục, các bên không còn tình cảm yêu thương, quý trọng, không chăm sóc, không giúp đỡ nhau, cuộc sống chung không còn duy trì, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị H [7] Về con chung: Anh chị có 01 người con chung là cháu Võ Trường A, sinh ngày 07/02/2014, hiện nay cháu đang sống cùng anh C. Theo đơn khởi kiện và lời khai ngày 02/3/2021 của chị H thể hiện trước khi nộp đơn ly hôn thì chị H và anh C đã thỏa thuận sau khi ly hôn cháu Võ Trường A sẽ do anh C nuôi dưỡng nhưng do anh C không thực hiện theo những nội dung mà hai bên đã thỏa thuận trước đây, không đến Tòa án để giải quyết ly hôn vì vậy chị H xin được thay đổi về việc nuôi con, đề nghị Tòa án giao cháu Võ Trường A cho chị H nuôi dưỡng. Do anh Võ Trường C không hợp tác, nên Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai để xem xét nguyện vọng của cháu Võ Trường A mặt khác anh C không đến Tòa án làm việc, không đưa ra quan điểm của mình đối với việc nhận nuôi con chung. Do đó cần giao cháu Võ Trương A cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp.

[8] Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và công nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[9] Về án phí: Chị Đặng Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147;khoản 1 Điều 228; Điều 271 và khoản 1 Điều 273của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; Điều 56; Điều 58; Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đặng Thị H.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị H được ly hôn với anh Võ Trường C.

1.2. Về con chung: Giao cháu Võ Trường A cho chị Đặng Thị H nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi trưởng thành.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110 và Điều 118 Luật Hôn nhân gia đình.

1.4 Về tài sản chung và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết

2. Về án phí: Chị Đặng Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003882 ngày 19/02/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngàybản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về