Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Điện Bàn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 330/2020/TLST - HNGĐ, ngày 14/10/2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30/12/2020, giữa:

1/ Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Như T – Sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn T, xã Điện P, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. (có mặt) 

2/ Bị đơn Ông Nguyễn Qúy Bình N – Sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn X, xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/10/2020 và các lời khai tiếp theo tại Tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như T trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Qúy Bình N kết hôn vào ngày 27/01/2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông, bà kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được sự đồng ý của hai bên gia đình. Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N không lo cho gia đình, ghen tuông và có hành vi bạo lực đánh đập bà T nên bà đã bỏ đi từ năm 2019 đến nay không chung sống cùng với ông N. Nay tình cảm vợ chồng không còn, bà T không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân cùng với ông N được nữa nên bà yêu cầu Tòa giải quyết cho ly hôn với ông Nguyễn Qúy Bình N.

Về nuôi con chung: có 01 con chung, Nguyễn Bảo C, sinh ngày: 26/5/2015. Hiện nay con đang sống cùng với ông N và ông bà nội tại xã Điện Quang, khi ly hôn bà không yêu cầu được nuôi con và để con lại cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có Ngoài ra bà Nguyễn Thị Như T không có ý kiến gì khác.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Qúy Bình N:

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhiều lần triệu tập ông đến Tòa làm việc nhưng ông cố tình trốn tránh không đến Tòa nên không có lời trình bày của ông N và không thực hiện được việc cấp tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng. Do đó, Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tại khoản 2 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án tiến hành đúng các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định pháp luật;

+ Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử, xử chấp nhậnguyên đơn khởi kiện, cho bà Nguyễn Thị Như T được ly hôn với ông Nguyễn Qúy Bình N. Về con chung: giao con Nguyễn Bảo C cho ông N nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Qúy BÌnh N mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, do đó căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Như T và ông Nguyễn Qúy BÌnh N kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà T khai là do ông N không lo cho gia đình, ghen tuông và có hành vi bạo lực đối với bà, vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay nên không còn tình cảm và yêu cầu được ly hôn. Đối với ông N, từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông N theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông N không đến Tòa, không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến thể hiện mong muốn được đoàn tụ chung sống. Do đó, xét thấy hôn nhân của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho bà Nguyễn Thị Như T được ly hôn với ông Nguyễn Qúy Bình N.

[3] Về nuôi con chung: có 01 con chung Nguyễn Bảo C, sinh ngày: 26/5/2015, bà T không có yêu cầu nuôi con chung, quá trình giải quyết vụ án ông N không đến Tòa trình bày ý kiến về việc nuôi con chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị T bỏ đi đến nay thì con Nguyễn Bảo C sống cùng với ông N và ông bà nội đã ổn định nên căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con và để đảm bảo ổn định môi trường sống cho con Hội đồng xét xử giao con cho ông N nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình. Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Bà T không tự nguyện cấp dưỡng, ông N vắng mặt không có ý kiến về yêu cầu cấp dưỡng, nếu sau này ông có yêu cầu thì giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà T khai vợ chồng không có tài sản chung nhưng quá trình giải quyết vụ án không làm việc được với bị đơn nên không xác định được tài sản chung và nợ chung của vợ chồng. Do đó, HĐXX không xem xét, sau này các đượng sự có yêu cầu thì giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 147, Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí, Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị Như T được ly hôn với ông Nguyễn Quý Bình N.

2. Về nuôi con chung: Giao con Nguyễn Bảo C, sinh ngày: 26/5/2015 cho ông Nguyễn Quý Bình N trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Nguyễn Thị Như T được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Như T phải chịu 300.000 đồng án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002756 ngày 14/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn.

4. Về quyền kháng cáo: nguyênguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về