Bản án 19/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

 BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại phòng xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST - HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Lò Văn Th; tên gọi khác: Không; sinh năm 1991; Tại: Xã QT, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Thôn 2, xã HS, huyện TC, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn U, sinh năm 1959 và bà Tòng Thị Ph, sinh năm 1962; Bị cáo có vợ: Tẩn Thị B, sinh năm 1995; Bị cáo có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa bị cơ quan nhà nước nào xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 02/7/2009 bị Công an huyện TG bắt về hành vi “Trộm cắp tài sản”, nhưng ngày 28/7/2009 Tòa án nhân dân huyện TG ra quyết định đình chỉ vụ án số 13/QĐ – ĐCVA do chính sách pháp luật hình sự thay đổi nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện TG. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty ĐL Điện Biên; Địa chỉ: Số 904, tổ 9, phường MT, thành phố ĐBP, tỉnh Điện Biên. Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Việt C, sinh năm 1975; Trú tại: Khối TT, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; Trú tại: Bản TL, xã QT, huyện TG, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt).

+ Bà Bùi Thị L, sinh năm 1969; Trú tại: Khối TX, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng trưa ngày mùng 04 hoặc mùng 05 tháng 10 năm 2020 (Lò Văn Th không nhớ chính xác ngày), Th bắt xe khách từ TC về TG, khi đến bến xe thị trấn TG, Th đi bộ về nhà bố mẹ đẻ ở bản Hới Trong, xã QT. Khi đi qua trạm biến áp 110 KV ở bản Pom Ban, xã QT, huyện TG, Th nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của trạm biến áp mang bán để chi tiêu cá nhân. Th men theo đường đồi vòng qua phía sau trạm, trèo tường vào, đi đến các cột thiết bị điện giáp tường gần bể nước dùng tay bẻ lấy hơn chục đoạn dây tiếp địa M95 ném qua tường rào. Sau đó, Th mang số đoạn dây tiếp địa trộm được đi về phía cầu treo hướng bản Pom Ban đi bản Bông Ban, ngồi dưới gầm cầu treo dùng dao bấm mang theo gọt vỏ một số đoạn dây dài lấy lõi kim loại bên trong mang đi bán, số đoạn dây tiếp địa còn lại chưa gọt vỏ Th giấu dưới gầm cầu. Th gọi điện thoại cho Lò Văn Th1, sinh năm 1985: Trú tại bản M, xã QT, huyện TG đến chở Th đi bán lõi dây kim loại tại cửa hàng thu mua phế liệu của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; Trú tại: bản Tân Lập, xã QT, huyện TG được 05 kg, H trả cho Th số tiền 400.000 đồng. Khoảng ngày 07/10/2020 Th ra gầm cầu treo dùng dao bấm gọt vỏ số đoạn dây tiếp địa còn lại đã giấu lấy lõi kim loại, gỡ rối, vo tròn cho vào bao tải mang đi bán ở cửa hàng thu mua phế liệu của chị Bùi Thị L, sinh năm 1969; Trú tại: Khối TX, thị trấn TG, huyện TG được 3,6kg, L trả cho Th số tiền 320.000 đồng. Đến chiều ngày 10/10/2020, Th lại tiếp tục đi bộ vào trạm biến áp 110 KV dùng tay bẻ trộm 03 đoạn dây tiếp địa mang ra gầm cầu treo dùng dao bấm gọt vỏ lấy lõi kim loại và gọi điện thoại cho Th1 đến chở đi bán cho chị H được 3,5kg, H trả cho Th số tiền 250.000 đồng và đã tiêu hết số tiền này.

Ngày 12/10/2020 cán bộ quản lý của trạm biến áp 110 KV trình báo cơ quan điều tra Công an huyện TG về việc trạm bị trộm 16 đoạn dây tiếp địa. Ngày 14/10/2020, Th ra cơ quan công an huyện TG tự thú về hành vi phạm tội của mình, tại cơ quan điều tra Th đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Cùng ngày Công an huyện TG đã tạm giữ của Th 01 (một) áo phông tay ngắn, không có cổ màu cam, phía sau có in các chữ số CTT54 - ĐH1 và in số 13; tạm giữ của Nguyễn Thị H 02 (hai) cuộn dây tiếp địa M95 nặng 8,5 kg gồm 08 dây có đặc điểm màu vàng, xám đen với nhiều sợi kim loại nhỏ bện với nhau; Tạm giữ của Bùi Thị L 01 (một) túi dây tiếp địa M95 nặng 3,6kg có đặc điểm là màu vàng, xám đen với nhiều sợi kim loại nhỏ bện với nhau.

Căn cứ vào yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan CSĐT Công an huyện TG gồm:

08 dây tiếp địa M95 nặng 8,5kg = 21,8 m và 01 (một) túi dây tiếp địa M95 đã bị gỡ rối, nặng 3,6kg. Nhưng do 01 túi dây tiếp địa M95 nặng 3,6kg đã bị gỡ rối nên không đo được chiều dài cụ thể từng sợi. Do đó áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo thì số dây tiếp địa M95 có số đo cụ thể là 8,5kg = 21,8m, vậy 3,6kg dây tiếp M95 địa bị gỡ rối sẽ tương ứng bằng 9,2m. Vậy tổng chiều dài dây tiếp địa M95 sử dụng từ năm 2019 đưa ra định giá là 31m và được tính giá là 31m x 188.000đ/mét - 20%/năm (tỉ lệ hao mòn tải sản).

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 22/KL-ĐGTS ngày 19/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TG, tỉnh Điện Biên đã kết luận tài sản bị cáo trộm cắp đưa ra định giá có tổng giá trị là 4.662.400đ (Bốn triệu sáu trăm sáu mươi hai nghìn bốn trăm đồng). Tài sản đưa ra định giá cụ thể như sau:

- Dây tiếp địa M95 nặng 8,5kg sử dụng từ năm 2019 gồm: 02 (hai) dây chiều dài 3,5m (Ba phẩy năm mét), 02 (hai) dây chiều dài 3,2m (Ba phẩy hai mét), 02 (hai) dây chiều dài 2,6m (Hai phẩy sáu mét), 01 (một) dây chiều dài 2m (Hai mét), 01 (một) dây chiều dài 1,2m (Một phẩy hai mét) - 01 (một) túi dây tiếp địa M95 đã bị gỡ rối, nặng 3,6kg Như vậy, trong ngày 04 hoặc 05 tháng 10 năm 2020, Th trộm cắp 23,7 mét dây tiếp địa M95 có trị giá 3.564.480đ. Đến ngày 10/10/2020 Th tiếp tục trộm cắp 7,3 mét dây tiếp địa M95 có trị giá 1.097.920đ. Tổng số dây tiếp địa M95 Th trộm cắp là 31 mét có tổng trị giá là 4.662.400đ. Th bóc vỏ lấy được 12,1 kg lõi dây kim loại đem bán được 970.000 đồng, số tiền trên Th đã chi tiêu hết. Số vỏ dây tiếp địa Th đã vứt xuống suối, con dao bấm dùng để gọt vỏ dây tiếp địa Th đã làm rơi mất.

Tại phiên tòa bị cáo một lần nữa đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKS ngày 15/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong lời luận tội đại diện VKSND huyện TG vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu Tòa án xem xét; Về vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 08 dây kim loại màu vàng xám đen và 01 túi dây kim loại màu vàng xám đen đã bị gỡ rối. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông tay ngắn, không cổ, màu cam, phía sau áo có in số 13; Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng mà viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tự bào chữa cũng như không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về bản Luận tội.

Bị hại có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt vẫn giữ nguyên ý kiến như bản tự khai và lời khai trong quá trình điều tra. Về phần trách nhiệm dân sự bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại và không yêu cầu trả lại tài sản bị cáo trộm cắp do không tái sử dụng được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về phần trách nhiệm hình sự bị hại đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H và bà Bùi Thị L xin xét xử vắng mặt. Trong đơn xin xét xử vắng mặt bà L và chị H vẫn giữ nguyên ý kiến của mình như lời khai trong quá trình điều tra. Về phần trách nhiệm dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì khác. Về phần trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Do bản thân bị cáo muốn thỏa mãn nhu cầu cần có tiền để tiêu xài cá nhân. Lợi dụng sơ hở, thiếu sót trong khâu quản lý tài sản của đội quản lý vận hành lưới điện cao thế 110kv TG, trong ngày 04 hoặc 05 tháng 10 năm 2020, bị cáo lén lút, bí mật trộm cắp 23,7 mét dây tiếp địa M95 có trị giá 3.564.480đ và đến ngày 10/10/2020 bị cáo tiếp tục trộm cắp 7,3 mét dây tiếp địa M95 có trị giá 1.097.920đ. Tổng số dây tiếp địa M95 bị cáo trộm cắp là 31 mét = 12,1kg, có tổng trị giá là 4.662.400đ. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã hoàn thành. Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các bản cung và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Mặc dù bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nhưng lần thứ hai tài sản bị cáo trộm cắp trị giá dưới hai triệu đồng nên sẽ cộng tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo trong cả 02 lần thực hiện hành vi, tức là 3.564.480đ + 1.097.920đ = 4.662.400đ, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 4.662.400đ. Với hành vi và tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của tổ chức được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn xã QT nói riêng và huyện TG nói chung. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý trước pháp luật để bị cáo lấy đó là bài học cho mình đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo đã tự thú, đồng thời quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã QT, huyện TG. Học hết lớp 12 thì nghỉ học ở nhà làm nông nghiệp. Năm 2014, xây dựng gia đình với Tẩn Thị B và có 02 con chung. Ngày 02/7/2009 bị Công an huyện TG bắt về hành vi “Trộm cắp tài sản”, nhưng ngày 28/7/2009 Tòa án nhân dân huyện TG ra quyết định đình chỉ vụ án số 13/QĐ – ĐCVA do chính sách pháp luật hình sự thay đổi nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm. Bản thân bị cáo nghiện ma túy từ năm 2017, không có việc làm ổn định, lười lao động, mặc dù nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội vì mục đích vụ lợi cá nhân. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để bị cáo có điều kiện cai nghiện ma túy.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, nhưng bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo không có thu nhập nào khác, tài sản không có gì nên không có khả năng thi hành, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại hay yêu cầu tòa án xem xét giải quyết vấn đề gì khác liên quan đến trách nhiệm dân sự của bị cáo.

[9]. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST nên bị cáo được miễn án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10]. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng:

[10.1]. Đối với vật chứng là tài sản gồm 12,1 kg dây tiếp địa M95 có đặc điểm cụ thể như sau:

- Dây tiếp địa M95 nặng 8,5kg sử dụng từ năm 2019 gồm: 02 (hai) dây chiều dài 3,5m (Ba phẩy năm mét), 02 (hai) dây chiều dài 3,2m (Ba phẩy hai mét), 02 (hai) dây chiều dài 2,6m (Hai phẩy sáu mét), 01 (một) dây chiều dài 2m (Hai mét), 01 (một) dây chiều dài 1,2m (Một phẩy hai mét);

- 01 (một) túi dây tiếp địa M95 đã bị gỡ rối, nặng 3,6kg Đây là số tài sản bị cáo trộm cắp được tại Trạm 110KV TG mà Công an huyện TG đã thu giữ được, số tài sản trên theo quy định trả cho bị hại là Công ty ĐLĐB, nhưng bị hại không yêu cầu trả lại do đó Hội đồng xét xử sẽ tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10.2]. Đối với 01 (một) chiếc áo phông tay ngắn, không có cổ màu cam, phía sau áo có in các chữ và số CTT54-ĐH1 13 Công an huyện TG thu giữ của bị cáo: Đây là chiếc áo bị cáo mặc để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 04 hoặc 05 tháng 10 năm 2020 và ngày 10/10/2020 tại Trạm 110KV TG. Xét thấy chiếc áo không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

[11]. Các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với Nguyễn Thị H và Bùi Thị L sau khi tự nguyện giao nộp số lõi đồng mua của bị cáo thì không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về mặt dân sự. Chị H và bà L không biết nguồn gốc số lõi đồng do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG không đề cập để xử lý do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với Lò Văn Th1, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương nhưng Th1 không có mặt, chính quyền địa phương không biết đi đâu làm gì. Khi xác minh được Th1 ở đâu Công an huyện TG sẽ làm rõ Th1 có liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo hay không, nếu có sẽ xử lý theo quy định của pháp luật, vì vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[12]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên về hình phạt, tội danh, trách nhiệm dân sự, án phí và vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13]. Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 14/10/2020

 3. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận đề nghị của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

4. Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 12,1 kg dây tiếp địa M95 có đặc điểm như sau:

+ Dây tiếp địa M95 nặng 8,5kg gồm: 02 (hai) dây chiều dài 3,5m (Ba phẩy năm mét), 02 (hai) dây chiều dài 3,2m (Ba phẩy hai mét), 02 (hai) dây chiều dài 2,6m (Hai phẩy sáu mét), 01 (một) dây chiều dài 2m (Hai mét), 01 (một) dây chiều dài 1,2m (Một phẩy hai mét);

+ 01 (một) túi dây tiếp địa M95 đã bị gỡ, rối, nặng 3,6kg;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc áo phông tay ngắn, không có cổ màu cam, phía sau áo có in các chữ và số CTT54-ĐH1 13 (Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2020).

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/12/2020); Bị hại có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về